Xin mời quý bạn yêu thơ thăm Vườn Thơ TRANH ĐẤU của Lê Mai Lĩnh.
Nhà thơ LÊ MAI LĨNH
Tên thật Lê Văn Chính
Gốc gác Quảng Điền, Triệu Phong, Quảng trị.
Tức là SƯƠNG BIÊN THÙY, viết từ năm 1958, với nhiều thể loại.
Trước 75 từng cộng tác với : Nghê Thuật, Khởi Hành, Gió Mới, Ngàn Khơi, Văn, Tiền Phong…
Cựu Sĩ Quan QL VNCH
Sau 75 qua nhiều trại tù Cộng Sản từ Nam ra Bắc.
Hiện định cư tại thành phố Pittsburgh - Pennsylvania - Hoa Kỳ
Tiếp tục con đường văn nghệ, trong sự nghiệp đấu tranh giải thể chế độ CS, có mặt trên nhiều tờ báo ở Mỹ, Canada và Châu Âu.
Dù trong gông cùm, xiềng xích,trước họng súng lưỡi lê,
Thi sĩ vẫn lên tiếng và thơ đã có mặt
BÊN NÀY BÊN KIA NÚI CHỨA CHAN
Bên kia núi Chứa Chan, anh có em Em có anh bên này núi Chứa Chan Qua trái núi ngăn cách tình chan chứa Đã chán chưa trái núi cách ngăn
Bên này Chứa Chan anh còn trái tim Anh còn tình yêu, anh còn cuộc đời Còn em một trời chói chang hạnh phúc Bóng núi kia đâu khuất nổi dáng người
Núi còn đó với rêu phong tháng năm Trời cón lúc khói sương màn bông Nhưng trong ta tình còn chói lọi Ấp ủ tim yêu một ngọn lửa hồng
Qua trái núi anh nhớ em và con Không vì thế ngày tháng mỏi mòn Dậy trong ta một lòng son sắt Tình yêu em như yêu nước non
Dưới chân núi là sân ga nhỏ Mà con tàu thét gọi hằng đêm Tiếng còi nghe lòng mình buốt nhói Đã trể rồi qua mấy bận tàu qua
Lạ nhỉ, tiếng còi tàu mỗi đêm Nghe như réo gọi, giục giã, lần khân Rồi giận hờn, trách móc, tức tối Tàu bỏ đi, còi xa, mất dần
Bao nhiêu rồi tàu đến, tàu đi Đã bao nhiêu chiến hữu lên đường Đã bao nhiêu tàu về Phục-Quốc Sao còn đây ta trong buổi nhiểu nhương
Núi thì đứng, mà tàu thì đi Em là núi hay em là tàu Anh là tàu hay anh là núi Giỏi theo nhau cùng một vầng trăng
Bên kia núi Chứa Chan anh có em Em có anh bên này núi chứa chan Qua trái núi ngăn cách tình Chan Chứa Đã chán chưa trái núi cách ngăn (Trại tù Gia Rai 1981)
MỘT NGÀY NHƯ MỌI NGÀY
Sáng, một khúc sắn nhí Trưa, hai chén sắn lưng Chiều, lưng hai chén sắn Làm, tám tiếng còng lưng
Ăn, nuôi như trẻ nít Chơi, có thì giờ đâu Ngủ, chật như cá hộp Làm, hối thúc như trâu
Sáng mở mắt, khẩn trương Tối đi ngủ, khẩn trương Giờ tập họp, khẩn trương Khẩn trương và khẩn trương
Nuôi như thế, đành sao Dẫu chi cũng là người Người nuôi người như thế Rồi cũng thành đười ươi
Nào ếch nhái, ếch ương Nào cào cào, chẫu chuột Nào dế đũi, dế cơm Nướng lửa rơm ăn tuốt
Nào vỏ khoai, vỏ sắn Nào rau diệu, rau dừa Nào rau ôm, rau ngố Rửa qua loa, ăn bừa
Mỗi người một cái cóng Mỗi người một cái gô Sau mỗi giờ lao động Thấy lửa cứ nhào dzô
Bạn ta ăn móng chó Cơ quan thải ba ngày Nướng lửa rơm vội vã Ăn được, kể cũng hay
Bạn nói bạn nhập môn Vào làng ăn thịt cầy Với móng chó hôi thối Bài học này đắng cay (Trại tù Vĩnh Phú 1979)
Thời đại HỒ CHÍ MINH
Thời buổi gì muối cũng không đủ ăn Và có lúc thấy ngọt như đường Thời buổi chi mà lạ lùng thế rứa Mở mắt ra toàn nói chuyện ăn
Nầy bọn Tư Bản bốc lột kia ơi Sao mầy toàn nói chuyện ăn chơi Hãy xem đây Việt Nam Xã Hội Chủ Nghĩa Suối tháng, quanh năn, làm cả đời
Thời buổi gì trông cũng lạ lùng Toàn nói chuyện ăn chơi mà giàu Còn ta, thường xuyên thi đua lao động Mấy chục năm qua dân vẫn đói nghèo
Nói Độc Lập, nước nhà thống nhất Để mở ra thời kỳ vàng son Cũng là lúc cầu bơ cầu bất Dân đói ăn, khố áo chỉ còn
Trông lên thấy cở đỏ chói chang Biểu ngữ, huy chương nghĩa chữ làng chàng Ngó xuống thấy dân đời điêu đứng Máu đổ, thây phơi hàng nối hàng (Trại tù Thanh Phong 1980)
CHUYẾN TÀU CUỐI NĂM
(Trại tù Gia Rai 1-1-81)
Về quê hương vào những ngày cuối năm Trên con tàu chở đầy xiềng xích Xin vĩnh biệt chào vương quốc lừa dối Trả lại Người những đói rét hờn căm
Mai ta đi từ bóng tối mù tăm Nơi ta về quê miền Nam yêu dấu Hãy ở lại những đói nghèo đau thương ẩn náu Chia tay nghe, vĩnh biệt yên nằm
Chào không chút xót thương núi rừng Việt Bắc Hoàng Liên Sơn, Yên Bái, Lào Kai Chào Vĩnh Phú, Thanh Phong, Thanh Hóa Còn trong ta cơn ác mộng chưa phai
Chào bo bo, chào sắn khoai, bắp xay bắp hột Vĩnh biệt nghe nước muối đại dương Chào rau tàu bay, lá rừng chua xót Khi nghĩ về lạnh buốt khớp xương
Mai ta đi chào những ngôi giáo đường Đứng lạnh lùng giữa hoang tàn cỏ dại Hãy ở lại nghe những nghiêng chùa đổ chái Áo rêu phong khép kín niềm thương
Chào con phố nào ta đã có lần qua Dẫu không biết tên để gọi Nhưng trong lòng ta thầm nói Đó là phố Sinh Từ Để nhớ Trần Dần và nhóm Nhân Văn Để ngợi ca những thi sĩ, nhà văn Đã dũng cảm đấu tranh cho Sự Thật Ngậm ngùi trong lòng ta tưởng nhớ Phan Khôi Nhớ ông Bình Vôi bất hủ Nơi miền quê nào ông đã yên nằm ấp ủ Nhưng trong lòng tôi ông sống mãi Ông sống mãi rồi ông Phan Khôi ơi Nhớ về ông tôi nghĩ tới Kim Tự Tháp của ông Hồ Mai cuộc vuông tròn đời còn tính sổ
Mai ta đi chào những gia đình bị chỉ định cư trú Vách đất mái tranh không đủ ấm mùa Đông Nương sắn đồi khoai không đắp đổi qua ngày Phải lặn lội rừng sâu năm năm một lần đổi chỗ Thương cụ già tám mươi tất bật ngược xuôi Mấy chục năm rồi đói khổ Nhìn đàn con cháu điêu linh Không dám đứng lâu để bày tỏ sự tình Sợ thằng công an gó nhìn quở mắng
Chào em bé ném đá ta ngày mới tới Và cô bé chu miệng chưởi rủa mẹ cha ta ngày mới ra Giờ thì biết em đã biết ta Không phải là quân ăn thịt người Nên đã có em mang sắn đến cho ta
Từ con tàu qua khỏi bờ Nam Kinh hoàng lòng ta rợn người muốn khóc Đã sau lưng rồi xứ sờ đau thương Ta đã thoát hang hùm khó nhọc
Trên những cánh đồng miền Trung tàu qua Ta chỉ thấy đàn bà em nhỏ Thanh niên đâu, đi lính hay tù Đã mấy năm rồi quê hương thế đó
Này cô gái thanh niên xung phong Khi con tàu qua khỏi hầm đèo Sao cô cầm đá ném vào đầu công an Rồi hai tay chống nạnh nhìn theo
Này các em ở sân ga Đà Nẵng Có bao lăm lời lỗ thế nào Mà em ném cho ta bao thuốc tặng Nhỡ công thấy được làm sao
Này các em nhỏ ở sân ga Nha Trang Em hát những gì nghe sao ngộ nhĩnh Em giận đời chăng rằng em bị phỉnh “Như có Bác Hồ trong thùng phuy đậy nắp Mở nắp ra nghe cái cốc trên đầu” Em hát lạ lùng giữa một đám đông Đứng vẫy tay chào các anh trở lại Trong lòng ta từ nay sống mãi Tình quê hương lòng đồng bào miền Nam Trong nỗi đau quân cướp Đỏ bạo tàn
Này cái vẫy tay vụng trộm đón chào Này con mắt nhìn dấu yêu thầm lặng Này nụ cười trao gởi niềm tin Đã hiểu rồi ta nhất định thắng
Chúng không giết được chúng ta sau ngày 30 tháng 4 Chúng không giết được ta trong BÓNG TỐI ĐÓI RÉT và SỰ LÃNG QUÊN Nơi rừng núi âm u Việt Bắc Ta đã ra ánh sánh ta đã về đất sống Nhất định chúng ta phải thắng Nhất định chúng ta phải thắng
Nhất định chúng ta phải thắng Thép đã tôi lưỡi gươm này phải sắc Phải rắn phải chắc phải bền lòng dũng cảm Đường gươm đi phải đẹp Phải làm lại từ đầu với cái giá đã mua Phải làm lại từ đầu đừng để lòng già nua Tóc dẫu bạc nhưng lòng thanh niên trẻ lại Trên bước đường đi, trong trái tim đời thoải mái Ta hiên ngang chững chạc đàng hoàng Ta đã về khi quân cướp hoang mang Ta đã về với niềm tin tất thắng
Về quê hương vào những ngày cuối năm Dẫu trong tay xích xiềng còn trói chặt Nhưng trong lòng ta bao nỗi hân hoan Khi thấy dấu bạo tàn sắp tắt
SẮN
Hãy cuốc xuống thật sâu, nạy lên bật gốc Hãy dọn dẹp, vun thành đống, châm lửa đốt cho sạch Nương rẫy đã xong, đất đai đã hoàn thành Hãy trồng xuống Hom sắn
Sắn đã nuôi ta sống Sắn đã hại đời ta say Ôi những bữa ăn đắng cay Những sắn. Toàn sắn
Sắn sớm, sắn trưa, sắn chiều, sắn cải thiện Sắn trao đổi áo quần, sắn trộm cắp dấu diếm Sắn nhờ thuốc thẳng, sắn lượm lặt hàng hiên Sắn thừa mứa chó chê,người đói nghèo nhặt nhạnh Sắn củ ngon, sắn lớn bành ky Sắn đuôi chuột, sắn trong đống vỏ Sắn gì cũng không chê không bỏ Ta cứ ăn vào đầy bao tử được là hay Đời tù no đếm được từng ngày Ôi hạnh phúc qua đêm, bụng không cồn cào là tốt Hỡi sắn, mày đã nuôi ta suốt bốn mùa Sắn tươi ngọt bột nhiều ăn ngon khoái chí Sắn chặt khúc phơi khô, nặng mùi nắng ăn vào khó chịu Sắn dzui từng sợi ăn có mùi chua Tất cả đều thua Sắn làm bột cho bánh ăn là nhất
Hỡi sắn, lương thực quý giá vô song Mà ông cha ta đã phụ bạc Mầy phải được phục hồi danh dự không thể khác Mầy phải đưọc nâng lên hàng đúng chỗ Lá, cũng chứa nhiều chất bổ Ôi sắn thần tiên đã đi suốt cuộc trường chinh Với Đảng Quang Vinh mấy mươi năm sống còn
nhờ cây sắn nuôi mình Sắn Vĩ Đại Sắn muôn năm Sắn đời đời ghi nhớ Sống Mãi Trong Sự Nghiệp Của Chúng Ta
Hỡi sắn, Có người dại khờ quên mầy nhiều chất bổ Họ dùng sửa bột, bắp xay, gạo đỏ để nuôi gia súc Và nhiều thứ thịt họ không thèm ăn Đem đổ xuống Đại Dương tránh dòi bọ lân la lúc nhúc
Hỡi sắn, Niềm tự hào của Đảng ta Nhờ mầy, Thế giới biết tên Việt Nam - Hồ Chí Minh Và nhân dân có sắn ăn ngon bá thở Ơn của người ta nhớ mãi trong mình
Hãy cuốc xuống thật sâu chôn kín lũ bạo tàn Hãy dọn dẹp, chất thành đống, châm lửa đốt cho sạch Trời của ta, đất của ta Ta phải đối đầu thử thách Diệt cho tàn loài sâu bọ dã man
(Nghĩ Hoàng Liên Sơn 1977, Làm tại Vĩnh Phú 1979)
BẢN CÁO TRẠNG HAY THƯ GỞI TÊN TÙ NHÂN CỦA LỊCH SỬ
Thưa Ông, Ký tên dưới đây là tôi Lê - Mai - Lĩnh Thi sĩ Yêu quê hương như yêu chính bản thân mình Và Tổ Quốc, trong trái tim hằng đêm thao thức Bụi và lãng mạn Thêm một chút khùng Khi trái trời trở gió biến thành điên Có máu hiệp sĩ Thích trừ gian diệt bạo Dù chỉ cân nặng 46 kílô và cao 1 mét sáu mươi lăm Nhưng tôi vẫn luôn đứng thẳng Dầu đã qua mấy mùa giông bão
Cha tôi là Lê Văn Thông Từ người kháng chiến yêu nước năm 45 Biết nói tiếng Pháp như gió Sau trở thành tên đảng viên CS chỉ biết cầm súng cắc-bụp-xòe Giờ đã 80 nằm một chỗ chưởi ông và tập đoàn lãnh đạo CSVN Bởi theo các ông mà thân tàn ma dại
Mẹ tôi là Nguyễn Thị Sầm Tần tảo một mình nuôi 4 đứa con từ ngày chồng tham gia kháng chiến Nhờ thế chúng tôi lớn khôn
Ba người anh tôi Một người đi lính Biệt Động Quân Một người đi Thủy Quân Lục Chiến Một người đi Biệt Kích Dù Còn tôi, ngành Chiến Tranh Chính Trị Sau 30 tháng 4 mẹ tôi bị cha tôi nạo một trận nên thân “Sao mụ cho chúng đi toàn thứ dữ” Mẹ tôi đã chết sau ông đúng mười năm Sau hai ngày Công An dẫn Ban Thuế Vụ vào nhà người anh tôi khiêng cái tủ thờ bằng gỗ cẩm lai và bắt con heo nái cùng bầy con để trừ vào thuế nông nghiệp. Lúc trên tường cái Huân Chương 40 năm tuổi đảng của cha tôi đỏ chói treo lủng lẳng Im lặng đồng lõa Mẹ tôi tức hộc máu mà chết
Tôi sinh ở Bình Trị Thiên Cùng quê với đôi dép râu Nhưng một đời tôi chỉ thích đi chân đất và giày sô Cho dễ chạy Chạy, bằng đôi chân của mẹ,khi còn là hài nhi thời tản cư năm 45. Chạy, khi thực dân Pháp bỏ bom thời ông Tiêu-Thổ- Kháng-Chiến. Chạy, khi ông ra lệnh rào làng chiến đấu, giặc Pháp về đốt nhà bắt người xếp hàng bắn như xâu táo. Đó là thời kỳ chạy lui bằng chân đất của tôi thời thơ ấu Khi chưa biết ông là ai ?
Nhưng từ Tết Mậu Thân năm 68 Khi ông dùng thơ làm mật lệnh Xua quân vào Huế chôn sống hàng chục ngàn người Tôi bắt đầu biết ông là ai ? Và từ đó tôi mang giày sô tiến lên phía trước
Tôi vào quân trường Thủ Đức học vài môn ăn chơi Cầm súng, ném lựu đạn, xốc lưỡi lê về phía trước Biết nhắm vào ai Tôi biết bò dưới hỏa lực và chủ động cho đường đạn bay tới Tôi biết di chuyển theo đội hình và thế nào là hiệp đồng tác chiến Chừng đó đủ cho tôi biết chơi trò chơi chiến tranh
Ba người anh dữ dằn của tôi chơi ở Bình Long, An Lộc, Khe Sanh, Hạ Lào, Cổ Thành Quảng Trị. Tôi biết mình nhỏ con, trói gà không chặt,lấy đâu thần công lực Chơi bạo, chơi xa Tôi về Tiểu Khu Phan Thiết quẩn quanh rong chơi nơi mật khu Lê Hồng Phong, Tam Giác Sắt Cầm chắc khẩu súng trong tay Nảy cò, làm thơ và uống rượu Quần thảo với lính ông, đàn dế điên mắt mù tai điếc Chúng lẩn tránh chui rúc tinh ranh như quỷ Chơi với dế điên lắm lúc cũng bực mình Chuyện sứt trán, bể vai là điều dễ hiểu tôi không muốn nói ra.
Cuốc thế đổi thay, lịch sử xoay vần Tôi vào tù và ông khô xác Làm con vật người triển lãm Chuyện kể ra dài dòng Để đó. Hồi sẽ rõ Lịch sử sẽ phân minh Công và tội Duy một điều tôi cần nói với ông Là hiện nay,nhân dân đang nguyền rũa ông quá đỗi
Họ nguyền rũa ông đã làm tay sai cho CS Quốc Tế Đem chủ nghĩa phi nhân, ngoại lai về giết hại dân lành Họ nguyền rũa ông đã Bần Cùng Hoá Nhân Dân Đưa Dân Tộc vào tận cùng rách nát
Ông đã sản sinh một lũ máy người Líu lo vẹt Nói dối như Vẹm Giết người không gớm tay Cướp đoạt tài sản của nhân dân không bút mực nào kể nổi Năm kháng chiến 45 ông đã giết hàng ngàn giáo dân Cao Đài Hòa Hảo Chứng tích rành rành theo lời ông Nguyễn Hộ Đảng viên 55 tuổi đảng đã tố cáo trước thế giới và nhân dân Ông giết những nhà trí thức, những người yêu nước Không chịu theo ông: Phạm Quỳnh, Ngô Đình Khôi, Khái Hưng, Hoàng Đạo, Huỳnh Phú Sổ, Tạ Thu Thâu… Và nhiều người nữa không sao kể hết.
Năm Cải Cách Ruộng Đất 53, 54 Ông giết hằng chục ngàn người, bị ông đem ra Đấu Tố Không từ đàn bà,trẻ em, người già, người bệnh
Năm Nhân Dân Giai Phẩm 56 Ông nhốt trí thức, văn nghệ sĩ vào tù, thủ tiêu, đọa đày xác thân Năm Tết Mậu Thân ở Huế, chỉ trong 21 ngày Ông đã ra lệnh chôn sống hàng chục ngàn người trong những ngôi mồ tập thể Hai mươi một ngày chừng đó người ông thủ tiêu Nếu hai mươi mốt tháng và hai mươi mốt tháng cho toàn miền Nam Thì bao nhiêu mồ chôn nếu các ông chiến thắng
Năm 75, ngày 30 tháng 4 Đảng ông xua quân vào cướp miền Nam Xé bỏ hiệp định Ba Lê Đảng ông chơi trò giải phóng Giải phóng cho nhân dân lầm than Giải phóng cho nhân dân tù đày Giải phóng cho đảng ông mặc tình vơ vét (vội vã vào vơ vét)
Các ông lùa dân đi kinh tế mới Để cướp nhà đoạt của Đói khát, nheo nhóc, bệnh tật, người dân bỏ về thành phố Nhà các ông đã cướp, của cải, tài sản các ông chiếm đoạt Người dân sống ở vỉa hè, nơi công viên, đầu đường xó chợ Kéo lê một đời khổ nhục lang thang Ông có biết không ?
Đảng ông chủ trương đánh Tư Sản để tài sản của nhân dân vào tay những tên Tư Sản Đỏ, là bọn đảng viên quyền thế các ông Ông có biết không ?
Đảng ông tổ chức Vượt Biên Bán Chính Thức Để cướp nhà, đoạt của , đoạt vàng Các ông ra lệnh cho người nhái, đặc công phá tàu, đục huyền, bắn xối xả vào thuyền cho dân chết chìm, chết thảm Ông có biết không ?
Tội của ông : “Trúc rừng Nam sơn không ghi hết tội Nước biển đông không rửa sạch tanh hôi” (Nói như thơ Nguyễn Trãi)
Chùa chiền nhà thờ các ông cấm Di tích văn hóa các ông phá Đồ cổ, tài sản quý hiếm của quốc gia các ông chia nhau Bán cho ngoại nhân Văn hóa phẩm các ông đốt Trí thức, văn nghệ sĩ các ông nhốt vào tú Địa ngục đỏ trần gian càc ông đày đọa nhân dân Tệ hơn Phong Kiến Thâm độc hơn Thực Dân Tàn bạo hơn Đế Quốc Ông có biết không ?
Đảng ông Cướp đất, cướp nhà, cướp của, cướp máu Cướp Tự do, cướp Dân chủ Là tội của ông Đảng ông Bán máu nhân dân, mánh mung giống nòi Xây nhà lầu, mua xe hơi Là tôi của ông Đảng ông Nay nói thế này, mai nói thế khác Tráo trở, láo lường như chó sói Là tội của ông Đạo đức luân lý ngược ngạo Văn hóa giáo dục ngu dân Tham nhũng cướp bóc lộng hành Ma túy, đĩ điếm, Si da tràn lan Là tội của ông ………………. ………………. Thưa ông Nhân danh tôi, một nhà thơ Có máu hiệp sĩ Thích rút súng, vung gươm và Múa bút Bênh vực và xót thương cho những phận đời bất hạnh Thấy ông bị nguyền rũa Tôi muốn thương ông mà thương không vô Hởi tên TÙ NHÂN LỊCH SỬ HỒ CHÍ MINH
LỜI TẠ LỖI VỚI QUÊ HƯƠNG
Dẫu thế nào tôi cũng phải đi Đành đoạn ra đi Thà chọn cho mình một kiếp lưu đày Hơn bị lưu đày trên chính quê hương Hãy thông cảm và tha thứ cho tôi Nguyễn Hoàng ơi, Việt Nam ơi, Việt Nam ơi Xin đừng gọi tôi là tên đào ngủ Dù ở nơi nào trên mặt đất này Tôi không quên, tôi, một NHÀ THƠ CHIẾN SĨ Mãi mãi chiến đấu cho QUÊ HƯƠNG VÀ TỰ DO
Tôi ra đi mang theo nửa trái tim Nửa còn lại giữ giùm tôi nhé Tôi ra đi mang theo cả quê hương Vãn chưa đủ ấm lòng tôi đó Nguyễn Hoàng ơi, Quảng Trị ơi, Việt Nam ơi Làm sao tôi có thể quên
Làm sao tôi có thể quên những người mẹ Quảng Trị Phơi tấm thân gầy trên ruộng đồng Dưới cái nắng chang chang cơn gió Lào rát mặt Chắt chiu từng hạt lúa củ khoai Nuôi cho con ăn học Con được vào trường Nguyễn Hoàng là niềm tự hào của mẹ
Làm sao tôi co thể quên những người cha Quảng Trị Tất bật ngược xuôi cuối bãi đầu ghềnh Nhặt nhạnh từng gánh than gánh củi Đổi thành gạo thành tiền,thành cơm, thành áo Mong cho con nên người Dưới mái trường Nguyễn Hoàng Quảng Tri thương yêu
Làm sao tôi có thể quên các thầy các cô Đã suốt đời hy sinh tận tụy Dạy cho tôi những kiến thức làm người Và những bài đạo lý vỡ lòng tôi nhớ mãi “Tiên học lễ, hậu học văn”
Làm sao tôi có thể quên những bạn bè dưới mái trường xưa Thương nhau như ruột thịt Tôi nhớ cả sân trường, cột cờ, tiếng trống giờ chơi Nhớ từng viên sỏi, ngọn cỏ lấp lánh sương mai Nhớ buổi tan trường như đàn ong vỡ tổ Màu trắng học trò và màu phượng vĩ đỏ Là bức tranh diệu kỳ vẽ trên nền trời biếc xanh Nguyễn Hoàng ơi, Quảng Trị ơi
Vâng tôi nhớ mãi Quảng Trị Thành phố nhỏ như một bàn tay Mà năm ngón là những đại lộ Và phố xá, đường làng, ngõ quê, xóm vắng Là những đường chỉ tay đan kết vào nhau Nhớ như in từng địa chỉ ngôi nhà Từng khung cửa sổ, ngọn đèn học thi Nhớ từng khuôn mặt, từng dáng đi Từng mái tóc vờn bay trong gió Từng tà áo thướt tha đầu ngõ Vành nó lá nghiêng nghiêng
Những con đường bờ sông phượng đỏ một trời Con đường đêm đêm mở ra một thế giới thần tiên Ở đó có nàng Công Chúa ngủ quên Chờ Hoàng Tử thức dậy Ở đó có những thảm cỏ xanh, gốc cây Và bóng tối thật dễ chịu Chúng không can dự vào những nụ hôn, lời thầm thì Của những đôi tình nhân yêu nhau, yêu nhau Ở đó có một dòng trăng chạy dài từ cầu ga đến chùa Tỉnh Hội Đêm đêm dập dìu những dáng liêu trai Làm sao tôi có thể quên
Và cả em nửa, làm sao tôi không nhớ Chính em đó, làm sao tôi có thể quên Những đêm Nguyễn Hoàng đầy trăng Tôi đi bộ hàng mấy cây số đường làng Qua những lũy tre bời dậu đến nhà ông Lê Chí Khiêm Hái trộm những cành hoa dạ lý hương Về cắm lên cửa sổ nhà em trọ học Đó là mùa hè năm 1962 Và cũng từ đó tôi mất em vì nỗi ngu ngơ dại khờ của tôi Và cũng từ đó tôi ra đi Chia tay Nguyễn Hoàng Quảng Trị Buổi lên đường, trong trái tim tôi em là kỷ niệm Em là kỷ niệm đẹp nhất thời thơ ấu của tôi Cảm ơn em, Cảm ơn em, Cảm ơn em. Em ở đâu, giờ này tôi biết Tôi cầu mong em hạnh phúc Và được yêu như tôi đã yêu em
Làm sao tôi có thể quên Làm sao tôi không nhớ Nguyễn Hoàng, Quảng Trị, Việt Nam chiến tranh Những cha con, chồng vợ, cháu chắt, ông bà Bồng bế, gồng gánh, chân đất đầu trần Đói khát khóc la và gào thét Đi trên mìn chông, đi trong đạn lạc Đi giữa bom napal, đi cùng tiếng đại bác Đi suốt con đường khổ nạn, trầm luân Bên thây người lăn lóc Bên thây người thối rữa Bên thây người tanh hôi Và những em thơ gào la bên xác mẹ không còn giọt sửa Đại lộ Kinh Hoàng Quảng Trị quê tôi trong ngút trời lửa đạn Những La Vang, Nhan Biều Trí Bưu, Cổ Thành, Chợ Sải Trần Hưng Đạo, Quang Trung, bờ sông Thạch Hãn Cửa nát nhà tan, ruộng đồng cháy đỏ Xác người đỏ Quê hương thành bình địa Dưới bom chiêu bài, đạn chủ nghĩa Của lũ người hiếu chiến, bọn người phi nhân Bởi người Marxist, Leninist Việt Nam Làm sao tôi có thể quên
Bài thơ này như một quà tặng trước giờ lên đường Con xin gởi lại thầy cô và bè bạn Anh gởi lại cho em Như nửa trái tim lưu luyến Cùng với nỗi xót xa “Trường đã mất và tên trường cũng không còn” (*) Nguyễn Hoàng ơi lẽ nào như thế mãi Và vấn đề hôm nay Đâu là sứ mệnh của chúng ta
(*) Lời thầy Thái Mộng Hùng
TRƯỜNG CA CHO HUẾ
1. Hãy tưởng tượng mỗi lần nói đến Huế những người mẹ Việt Nam áo lam ăn chay trường trai đi lễ chùa 15 hay mồng 1 và gặp nhau chắp cánh bái xá nói điều "Mô Phật" Hãy tưởng tượng mỗi lần nói đến Huế những lòng nữ sinh Đồng Khánh đi xe đạp đến trường áo trắng, cặp da đen dấu trong sách bức thư tình vừa mới nhận mang vào lớp học chuyền trong tay quà mọn ăn khi cô giáo giảng bài cười khúc khích nghe bình thơ Hồ Xuân Hương đỏ mặt Hãy tưởng tượng mỗi lần nói đến Huế về chiếc nón bài thơ như thanh gươm người nữ trinh chống đỡ như thành trì che nửa vành môi, nửa con mắt, nửa nụ cười, nửa tâm hồn, nửa cuộc đời thực tại, vào cơn mộng mị thiên thần ôi chiếc nón bài thơ chăn giữ khu vườn của nàng những vùng bí mật, kỳ diệu thay cho kẻ thám du cuộc đời tìm vào đất hứa những hân hoan chất ngất không cùng mới lạ trong lòng nàng Hãy tưởng tượng mỗi lần nói đến Huế về một mùa rực rỡ, những hồ sen những hồ sen đẹp ngụy lắm hoa chi mà nở trắng hồng tím cả mặt hồ những đỏ phượng, trắng áo, xanh mây trời, vàng con nắng hạ, đen nhung cỏ biếc hoa viên và não nùng cũng đen mầu tóc con gái amen Hãy tưởng tượng mỗi lần nói đến Huế về những căn nhà ma ngỏ vào hai bên là hai hàng cây kiểng tường những rêu phong đẹp như tranh tĩnh vật đời như cỏ cây đời sống mịn màng ôi mịn màng ôi mịn màng những con đường đêm bóng tối che khuất từng mảng người đi thấp thoáng liêu trai trong cổ tích bóng ai kia vật vờ con đóm sáng Hãy tưởng tượng mỗi lần nói đến huế về một mùa đông những ngày dài chi lạ về một cơn mưa dầm dề dài chi lạ về một nường gió cuốn suốt lòng con lộ vắng buồn chi lạ cơn mưa nường gió, vâng, chính chúng đã cầm chân người nữ em ở lại nhà em không đến chốn hẹn anh đứng chờ em trong mưa, em trùm em trong chăn, em tưởng anh, và đọc lại những bưc thư tình chúng ta dạo nào đẹp chi lạ, phải không anh, anh yêu dấu . Hãy tưởng tượng mỗi lần nói đến Huế về một cây cầu Trường Tiền cầu mang linh hồn người ngủ suốt mùa đông, những thân co rúm ôi cơn mưa tàn nhẫn chảy xối xả vào mặt chàng đó là lúc cầu cam thân chịu đựng cơn quất mặt tứ tung của gió cầu mùa đông mưa đọng thành cầu mưa rửa mặt chàng chàng lạnh lùng biết ngần nào phải không chàng ngủ suốt mùa đông phải không chàng ngủ suốt mùa đông và sống lại mùa hạ đó là lúc chàng vươn vai trở mình chào đón mọi người và phục sinh đúng là chàng đang phục sinh trong hội vui rực rỡ mùa hạ những cánh phượng đỏ đậu trên thân chàng trắng những con bướm khổng lồ thiếu nữ trong áo trắng những chiếc nón bài thơ trắng và dưới lòng chàng, dòng sông trắng chàng hóa thân nàng bạch tuyết phượng là chiếc nơ đỏ trên ngực người thiếu nữ 2. một phút mặc niệm dành cho Huế bắt đầu Hãy tưởng tượng những người chết đầu năm Mậu Thân chết tức tửi nụ tầm xuân đang cắn Hãy tưởng tượng những ngôi mộ trong vườn còn mới, mới những vòng hoa, mới những khăn tang, mới như ngày đầu năm đồng tiền mừng tuổi những lời chúc hạnh phúc đầu mùa, mới như nụ hôn đầu đời tình nghĩa mới như hôm nào giữa cha mẹ anh em vợ chồng con cái còn kia nụ cười, cơn hạnh ngộ còn kia hơi thở, người thân yêu còn kia cõi biếc thắm tươi, sao bay vút Hãy tưởng tượng những thân người tan như mảnh đạn bom nằm vãi trên các ngả đường trên các ngọn cây trên những đống gạch vụn trên những cây cầu, trên những dòng sông, đang được xe cày của thời đại cơ khí huy hoàng gom tém lại, xúc trong lưỡi xe đổ xuống hố bom, xe trở chiều đổ đất chôn xuống, Huế có những ngôi mộ tập thể chôn sâu anh em đồng bào ruột thịt, những ngôi mộ chôn thật sâu kẻo ruồi bọ chui rúc rĩa ráy ăn uống no nê béo tốt mập mạp xong rồi bò về thành phố hỏi thăm sức khỏe những người còn sống không có áo mặc cơm ăn nhà ở, không còn tinh thần can đảm mặt người tê buốt dao cắt trong lòng bàng hoàng kinh dị chẳng thể nào có trong thực tại nào ngờ. Hãy tưởng tượng tóc thề nữ sinh ngày nào biến thành rừng cỏ khô bay tứ chiếng trên thân người tình gã thanh niên nằm chết co quắp óng ánh những mỡ cháy khét lẹt, những chiếc nón bài thơ ngày nào biến thành chiếc quan tài liệm thân người ruột thịt, chiếc khăn tay biến thành miếng băng vết thương trào máu có vòi trên tim người tình đầu đời thiếu nữ, những chiếc áo trắng đến trường hôm nào biến thành những tấm vải che mặt thi thể người cha người mẹ người anh em ruột gan chia cắt mới hôm nào còn ăn còn thở còn nói năng những lời tình tự mới hôm nào, Hãy tưởng tượng đường trắng, nhà trắng, vườn trắng, phố trắng, cây trắng, sông trắng, núi trắng cả một rừng trắng, cả một trời trắng đang phủ xuống non nước Huế của khăn tang, tâm hồn tang Amen 3. Thế nào cũng có ngày Huế phục sinh phải không em em yêu dấu anh sẽ đưa em về anh sẽ đưa em về thế nào anh cũng đưa em về, Với Huế Amen (thơ miền nam thời chiến - tr 628)
GIAO THỪA NĂM 37 TUỔI
Ta tù nhân hề, khi nước nhà thống nhất Khi độc lập hề, dân đói quanh năm Ôi Đảng quang vinh hề, chỉ hay mồm mép Mấy mươi năm rồi, nước chỗ yên nằm
Ta nay đã 37 tuổi tròn Đầu lốm đốm với hai thứ tóc Nhớ từ thuở còn thơ đi học Qua đồng làng, ruộng lúa , nương khoai Thấy những đàn trâu ăn cỏ mệt nhoài Và những bác nông phu suốt đời vất vả Ta thấy xót xa cõi lòng khôn tả Mong có ngày đất ngước tiến lên Mong có ngày cơ giới làm nền Để giải phóng sức người lao động Ôi tuổi thơ ta với những tháng ngày trầm thống Ôi những ngày cuốc đất hái rau Cơm không đủ ăn, thiếu thuốc khi đau Phải lên rừng vào truông kiếm củi Tuổi thơ ta với những tháng ngày lầm lũi
Khi lớn lên nhận tay đời khẩu súng Để sửa sai người anh em khoác áo chiêu bài Nào Độc Lập, Tự Do, Hạnh Phúc Ôi những trò bịp bợm, quái thai.
Nào ngờ đâu trong cơn mặc cả Của lũ người mua bán chiến tranh Chúng trao ta vào tay đối nghịch Ôm hận tù đày, tội phạm chiến tranh
Ta được người mệnh danh giải phóng Đưa xuống tàu từ giã miền Nam Ra tới đây núi rừng Việt Bắc Tù khổ sai, không được than van
Nhờ ra đây ta còn thấy lại Những chiếc cày và mấy con trâu Những cụ già còng lưng cày cấy Trên ruộng đồng nước lũ thật sâu
Và những em thơ chân đất đến trường Như ta đã ba mươi năm về trước Ôi em thơ ngây áo quần tơi tước Đất nước thống nhất rồi, em có hay
Nhớ một lần đi gánh gạo Bằng- La Ta thấy lại cảnh đời năm cũ Mẹ 60 cày sâu ruộng lũ Mắt sáng ngời khi bắt được con cá to bằng ngón tay
Và những em nhỏ mặt mày đen đúa Thơ ngây đâu, tuổi trẻ cũng không còn Sao Đảng nói các em là những Đã làm người, Ông chủ tí hon Bác đã cho các em rất nhiều bánh Vẽ trên giấy tha hồ mà ăn
Nầy em nhỏ cầm đá ném vào đầu ta Trên đoạn đường gần ga Hà Nội Nếu không nhanh tay ta đã u đầu Chắc em buồn lòng không thơi thới
Đôi lúc các em cũng thành công Nói cho để các em mừng Bạn ta có đã năm, mười đứa Đã sưng đầu chảy máu đầy lưng
Này cô gái chu miệng chưởi rủa mẹ cha ta Trên đoạn đường gần ga Yên Bái Chắc cô vui vì ta đã nghe Chắc cô buồn vì ta đã cười
Dẫu thế nào ta vẫn khôn hơn cô Này cô bé, sao không về đi cày Ai bắt cô đứng đây giờ đó Để diễn trò căm phẩn, lạ thay
Giao Thừa đến rồi, ban giám đốc đốt pháo Bác Tôn chúc thư, trại đã mở đài Bánh chưng bóc rồi, ta ăn một nửa Từ từ thôi để hạnh phúc còn dài
Đã ba năm rồi ăn Tết trong tù Vợ con ta ơi, bốn phương lưu lạc Thôi đành xin lỗi vợ con Đón Giao Thừa hề, ta ôm chiếc bánh Nhân thịt ngón tay hề, ôi chiếc bánh chưng
Đã lâu lắm, ta thèm miếng thịt Nay Tết đến rồi nhà nước mới cho Ôi miếng thịt này sao ngon đáo để Chẳng biết trâu hay ngựa hay bò.
Mặt trời mọc rồi ở Phương Đông Chẳng thể phương nào khác như chúng muốn Chiều nay lặn ở Phương Tây Điều chắc chúng sẽ buồn
Ta thấy rồi TỰ DO mở rộng Song sắt nào khóa nổi hồn ta Đón Giao Thừa trong nhà giam lạnh Nhưng ấm lòng ta, niềm tin quê nhà
Trại tù Lào Kai 1978
|