Cuộc đào thoát khỏi VN trước ngày 30-4-75 |
Tác Giả: Trường Sơn Lê Xuân Nhị | |||
Thứ Tư, 28 Tháng 4 Năm 2010 09:17 | |||
Một quân đội oai hùng như thế, đánh tan giặc thù bao nhiêu năm, bao nhiêu lần, bao nhiêu chiến thắng để rồi cuối cùng lại bị thua một cách tức tưởi, nhục nhã và đau đớn... Nhà văn Trường Sơn Lê Xuân Nhị, tên thật là Lê Xuân Nhị, sinh năm 1951 tại Ban Mê Thuột, trưởng nam trong một gia đình nghèo gồm 8 người con, 5 trai 3 gái. Sinh ra và lớn trong hoàn cảnh nghèo khó của gia đình, tang thương của đất nước, ông không những là chứng nhân của một giai đoạn đầy bi thương của quê hương trong khói lửa chiến tranh Việt Nam, mà còn là người tình nguyện dấn thân trong cuộc chiến chống cộng sản xâm lăng bảo vệ tổ quốc với trách nhiệm của một phi công trong phi đoàn 114, biệt phái cho Sư Đoàn 23 QLVNCH. Với tấm lòng yêu thương quê hương đất nước tha thiết, cùng kinh nghiệm và sự hiểu biết sâu xa về cuộc chiến tranh VN, đặc biệt là với nỗi đau đớn của một người lính phải buông súng, rời bỏ quê hương, ông đã đặt chân lên nước Mỹ trong sự thao thức trăn trở của một người Việt ly hương, từng khoác áo lính, nên ông đã nhanh chóng tìm đến những trang báo Mỹ, những trang sách Việt để ký thác tâm sự. Là người thẳng thắn và chân thành, can đảm và nghị lực, tài hoa và đa cảm, nên chỉ trong thời gian ngắn, ông đã trở thành nhà văn tên tuổi tại hải ngoại. Bên cạnh những tác phẩm đầy tâm huyết của một người Việt tỵ nạn cộng sản như Đất Khách Trời Quê, Trôi Theo Vận Nước... xuất bản cách đây 20 năm, ông còn là tác giả của những tác phẩm thuộc loại best-seller như Xếp Al Capone, Phát Súng Ân Tình, Ngài Chủ Tịch... Nhân dịp tưởng niệm 35 năm ngày Quốc Hận, ông gửi tới Sàigòn Times bài viết về cuộc đào thoát khỏi VN của ông cách đây 35 năm. SGT chân thành cảm ơn tấm lòng ưu ái của ông và sau đây xin trân trọng giới thiệu cùng quý độc giả nguyên văn bài viết của ông.
Mặc áo lính ăn cơm chính phủ, không giữ được bờ cõi, phải bỏ quê hương mà chạy thì thật chẳng có gì hay ho để kể lại, cho nên, đã nhiều lần, tôi tính viết lại chuyện bỏ chạy của tôi, nhưng nghĩ lại, đành bỏ luôn. Bây giờ, tuổi đã gần 60, tôi đành viết lại một lần cho ai muốn thưởng thức thì đọc, còn không thì xin lật trang qua bài khác hay kiếm chuyện gì khác mà làm. Xin lỗi đã làm mất thì giờ quý vị. Trước đó một tháng, phi đoàn 114 tôi từ Nha Trang được lịnh bỏ thành phố bay về Phan Rang. Thành thật với lương tâm mà nói, thành phố Nha Trang lúc ấy chưa hề có một thằng Việt Cộng, chưa hề bị một trái pháo của giặc. Nhưng kinh nghiệm những ngày máu lửa vừa qua cho tôi biết là cái thành phố thân yêu của mình đang giẫy chết. Chết như thế nào thì tôi không biết, vấn đề chỉ còn là thời gian. Lúc ấy, dân quân di tản từ Tuy Hoà, Qui Nhơn, Pleiku đã tràn ngập thành phố. Lính không còn cấp chỉ huy, lại có súng ống trong người cho nên Nha Trang chẳng bao lâu đã biến thành một thành phố vô trật tự, coi như bỏ ngỏ và gần như hổn loạn. Hàng quán đóng cửa, trường học biến thành chỗ tạm trú cho dân tị nạn, dân chúng ít có ai dám ra đường. Quân Cảnh ngày thường thì đầy dẫy khắp nơi, nhưng những lúc ấy không hiểu bận chuyện gì lại thấy mất biệt (chuyện này dễ hiểu). Ngay cả anh em lính tráng chúng tôi đi đâu cũng phải đi thành nhóm để đề phòng bất trắc... Nhưng không phải là không có những chuyện vui, đáng nhớ... Đáng nhớ nhất và vui nhất là nhà đại uý Hưởng. Ông già vợ anh Hưởng vốn có nhiều... con gái cho nên đã chuẩn bị rất nhiều rượu quý (từ vang cho đến cổ nhắc, tới Sâm Banh) để làm đám cưới cho con. Đố ai có thể đoán, nếu ở Việt Nam, nhà mình có rượu quý thì chỗ nào là chỗ tốt nhất để giấu chúng? Xin thưa, đem chúng ngâm xuống giếng. Chỗ này vừa mát lạnh, vừa kín đáo, khỏi bao giờ sợ hư rượu. Một buổi chiều, anh Hưởng ngoắc tôi, Đ/u Nhơn, và vài người bạn khác tới nhà anh. Gia đình vợ anh đã di tản trước về Sài-Gòn nên chúng tôi tha hồ tự do, coi như mình là "người trong nhà", tự tiện nấu nướng, tự tiện... đủ thứ. Anh Hưởng ra sau giếng, móc lên một lô mấy bao cát đựng toàn rượu quý. Khui mấy bao cát ra, thấy toàn là những thứ rượu quý, chúng tôi hoa cả mắt. Nhưng hoàn cảnh chúng tôi lúc ấy, chưa biết chuyện gì sẽ xảy ra ngày mai, nên ngồi uống rượu mà lòng dạ ít còn hứng thú, và cũng uống không nhiều. Ai cũng có mối lo riêng ở trong lòng mình. Một vài ngày sau, một sáng cuối tháng 3, chúng tôi vừa vào phi trường thì không trở ra được nữa. Một đơn vị Biệt Động Quân (không rõ số quân) từ vùng 2 rút về đòi vào phi trường Nha Trang nhưng bị ngăn lại bên ngoài cổng. Thế là hai bên gườm nhau. 8 giờ sáng, chúng tôi được lệnh quyền phi đoàn trưởng là Thiếu Tá Oanh cho cất cánh đem tàu về Phan Rang. Chúng tôi vừa taxi ra phi đạo thì trực thăng cũng cất cánh ào ào. Lên trời, không hiểu sao tôi có cảm giác đây là lần cuối cùng mình còn thấy thành phố Nha Trang thân yêu, nên tôi bay thấp, lượn nhiều vòng trên thành phố... Ở dưới, thiên hạ hốt hoảng chạy tới chạy lui trong thành phố bằng đủ thứ phương tiện, từ xe gắn máy đến xe Lambretta, đến xe nhà binh lớn nhỏ đủ cỡ. Tôi không biết thiên hạ chạy đi đâu và để làm gì nhưng tôi thông cảm. Nếu tôi là họ, tôi cũng chỉ biết làm như thế thôi. Trưa đó, chúng tôi đáp Phan Rang, ai nấy lo để chuẩn bị tử thủ căn cứ này. Nhưng không hiểu sao, sư đoàn 2 Không Quân lại được lệnh di tản, đem tàu về Sài-Gòn, sư đoàn 6 Không Quân sẽ chịu trách nhiệm phòng thủ căn cứ. Về Sài-Gòn, sáng sáng chúng tôi vào trình diện rồi nhận tờ giấy phép 24 tiếng về nhà, hôm sau lại trở lại, bổn cũ soạn tiếp... Cứ như bình thường thì đây là một dịp cho tôi được ăn nhậu thả dàn nhưng hoàn cảnh đất nước lúc ấy, tôi chẳng còn lòng dạ nào. Hàng ngày đi vào phi trường, thấy người di tản ở đầy khắp mọi nơi, phi trường, toà đại sứ, công sở Mỹ v.v... Gặp nhau ai cũng nói đến chuyện đi Mỹ đi Úc, chẳng ai nói đến chuyện gì khác. Một buổi trưa, sau khi đi trình diện ở phi trường Tân Sơn Nhất, vừa về đến nhà thì tôi nghe nhiều tiếng nổ to lớn lạ thường và rất gần, đến từ hướng phi trường Tân Sơn Nhất. Tôi đang ở trọ một người quen ở Gia Định, cũng gần phi trường Tân Sơn Nhất nên hoảng hốt leo lên sân thượng quan sát. Lúc ấy tôi cũng chưa biết việc tụi Việt Cộng lái A-37 của ta tấn công dinh Độc Lập nên thấy mấy chiếc A-37 bay thấp gần đó, tôi nghĩ là phi cơ ta lên tìm pháo. Lại nghe tiếng đại liên phòng không bắn khắp nơi, tôi hốt hoảng đưa mắt tìm. Nhìn về phía bến Bạch Đằng, tôi giật mình kinh hãi khi nhận ra đại liên phòng không tứ hướng bến Bạch Đằng đang bắn lên cả máy bay C-130 Mỹ đang chở người di tản. May mà chiếc máy bay không hề hấn gì nhưng tôi biết anh phi công chắc phải teo chim cả tháng sau mới trở lại bình thường được. Chuyện bom nổ ở phi trường Tân Sơn Nhất, theo tôi nghĩ là chuyện thường xảy ra, nhưng chuyện phòng không ta bắn lên máy bay di tản làm tôi hoảng kinh hồn vía. Hoảng kinh là bởi một câu hỏi to lớn. Ai đã bắn lên phi cơ Mỹ, Hải Quân hay Việt Cộng? Tôi suy nghĩ thật nhanh và kết luận ngay là Việt Cộng đã tràn ngập Sài-Gòn. Hải Quân mình không thể có những hành động như thế. Từ sự suy nghĩ này, tôi liền có một quyết định quan trọng. Trước hết, nếu Việt Cộng đã vào thành phố thì tôi phải làm mọi cách để thoát ra khỏi đây. Không cần biết đi bằng đường gì, hàng không, đường biển, đường bộ, tôi phải thoát ra khỏi thành phố này. Là một phi công, dĩ nhiên, tôi chọn đường hàng không trước. Thế là tôi tròng áo bay, đeo ghia ghiếc vào người, bỏ một bộ đồ xi-vin trong một túi áo bay, túi kia 3 gói mì khô. Tôi phóng ra khỏi nhà kéo chiếc xe Honda đen của tôi xuống... Quý vị nào ở Việt Nam trước năm 75 chắc còn nhớ cái kiểu dựng xe gắn máy trên bàn chống. Khi mình kéo xe xuống từ bàn chống, nếu chiếc xe nó tưng lên một chút, đó là chuyện bình thường vì bánh xe cứng đầy hơi. Nhưng nếu mình kéo xuống, nó dẹp xuống luôn một đống không chịu tưng lên tức là có chuyện, bánh xe có thể bị sì lốp. Khốn nạn thân tôi, ngay vào cái lúc thập tử nhất sinh ấy, cái lúc dầu sôi lửa bỏng và nguy ngập nhất của cuộc đời tôi, cái bánh xe cái Honda khốn nạn của tôi bị xẹp lốp... Đã lái xe kinh nghiệm bao nhiêu năm, khi kéo xe xuống khỏi dàn chống, tôi chỉ cần nghe một tiếng "huỵch" là biết bánh xe mình bị sì lốp rồi, nhưng cho chắc ăn, tôi cúi xuống xem một lần nữa, chỉ hy vọng hai cái lỗ tai phi công của mình, sau bao nhiều ngày mệt mỏi, có thể nghe lộn không. Nhưng làm gì có chuyện đó. Tôi nhìn thấy cái bánh xe bị thân xe đè bẹp dí xuống, trông thảm nảo như một trái mít rụng. Tôi suy nghĩ thật nhanh và quyết định mình sẽ không có thì giờ để vá bánh xe. Hơn nữa, nếu có thì giờ để dắt xe đi thì cũng chưa chắc tìm ra chỗ mở cửa để cho tôi vá xe. Tôi dựng xe lên trở lại, quyết định chạy ra đường đón xe Lam vào Tân Sơn Nhất. Phóng ra ngoài đường, nhìn thấy thiên hạ ào ạt chạy lên chạy xuống càng làm tôi rối ren thêm. Tôi cảm thấy yên tâm khi còn nhìn thấy hình bóng lính mình và cảnh sát ở nhiều chỗ. Mẹ, như thế là tốt rồi, Việt Cộng có thể về bến Bạch Đằng nhưng ở đây còn yên. Tôi đứng ở một góc đường và bắt đầu thò tay đón xe Lam và gặp ngay được một điều ngạc nhiên khác mà tôi không hề nghĩ tới. Không hiểu vì một lý do... kỳ thị nào đó, tất cả những chiếc xe Lam chạy qua đều làm ngơ, khôngchịu dừng lại để đón tôi. Có thể họ sợ bộ đồ lính tôi đang mặc, cũng có thể vì giờ phút ấy không còn ai muốn đón khách nữa. Tôi đứng chưng hửng chừng một phút đồng hồ rồi quyết định rằng, bằng mọi giá, tôi phải vào phi trường Tân Sơn Nhất. Tôi muốn đón xe để đi nhưng không ai chịu ngừng thì tôi đành phải... cướp xe vậy. Thành thật mà nói, từ thuở sinh ra và lớn lên, tôi chưa hề làm một việc phạm pháp, chưa hề ăn cướp ăn giật của ai một đồng bạc, nhưng trong hoàn cảnh này, tôi không còn một sự lựa chọn nào khác hơn. Tôi sẽ làm bất cứ chuyện gì để thoát khỏi Sài-Gòn. Quyết định đến với tôi thật dễ dàng, dễ dàng như hút thuốc ăn cơm. Thế là tôi mở quai đeo súng, thò tay nắm chặt cán cây P. 38. Một chiếc xe Lam khác chạy tới, tôi bất ngờ phóng ra chận trước đầu chiếc xe, tay kia rút súng chỉa thẳng vào mặt người tài xế. Cha tài xế xe Lam hốt hoảng thắng gấp chiếc xe. Tôi vòng sang phía bên hông, phóng lên ngồi bên cạnh tài xế. Tôi chỉa họng cây súng P.38 còn mới toanh vào mặt người tài xế, gằn giọng: -Ông chở tôi vào phi trường Tân Sơn Nhất, giá bao nhiêu tôi cũng trả. Ông không chở, tôi bắn chết ông liền tại chỗ rồi lấy xe này đi vào... Cha tài xế bị một vố bất ngờ quá, miệng ú ớ không nói lên lời, tay run cầm cập, không có được một phản ứng. Cho rằng thằng này muốn làm khó, tôi gõ mũi cây súng vào thái dương thằng chả nghe đến đốp một phát, đổi liền cách xưng hô: -ĐM mày không chở tao nổ một phát mày chết liền tại chỗ rồi lấy xe mày đi cũng vậy thôi. Tôi nói thế và tôi sẽ làm thật, và làm mà không hề do dự. Trong hoàn cảnh tôi lúc ấy, tôi không có thì giờ để đi hù doạ ai cả. Lần này thì cha tài xế gật đầu lia lịa, rồ ga sang số. Tay thằng chả run quá làm chiếc xe Lam nhào lên ụp xuống, xém ủi cả vào lề. Tôi ngồi xích ra ngoài một chút, một tay giữ vững thành xe, tay kia vẫn hườm cây súng, để ngay trên vai cha tài xế... Chạy được một lúc, tôi ôn tồn cắt nghĩa cho cha hiểu tại sao tôi phải có những hành động như thế. Chả cũng nói chuyện với tôi và lần lần, 2 người trở nên thông cảm. Tôi xin lỗi cha tài xế và bảo tôi sẽ "bồi thường" cho chả 2 ngàn đồng. Cha tài xế chở tôi vào ngay trước phi trường Tân Sơn Nhất. Tôi đưa tiền, vỗ vai chả cười cười... Khi tôi tới phi trường thì mọi nơi trở lại yên tỉnh. Lúc ấy tôi mới được biết là chẳng có Việt Cộng nào chiếm thành phố cả và những tiếng nổ vừa rồi là kết quả của một cuộc dội bom của Việt Cộng dùng A-37 của mình. Vào trong phi trường, tôi đi lang thang, ngồi nhậu vớ vẩn với đám bạn bè trong câu lạc bộ chừng vài tiếng đồng hồ thì pháo lại ào ào rớt xuống phi trường. Lần này cường độ nghe kinh khiếp hơn cả những lần trước. Kinh nghiệm cho tôi biết tối nay Tân Sơn Nhất sẽ ăn pháo nặng. Thế là tôi lại dọt về nhà. Việc đầu tiên tôi làm là dắt cái xe Honda đi vá. Tối hôm đó, quả đúng như tôi nghĩ, phi trường bị ăn pháo nặng. Tôi ngồi trên sân thượng nhà mình nhìn từng quả đạn bay về phi trường mà lòng đau như cắt. Đó là buổi tối cuối cùng của tôi nơi thành phố thân yêu. Sáng hôm sau, tôi thức giấc sớm, phóng Honda vào phi trường. Việt Cộng đã pháo phi trường suốt đêm, cho đến sáng thì cường độ giảm đi nhưng vẫn còn lai rai. Tới gần phi trường, từ đàng xa, tôi đã nhìn thấy hàng ngàn chiếc xe, vừa nhà binh vừa xi-vin bị kẹt ở ngoài thành một biển xe. Nhiều người lính Không Quân, có lẽ chờ lâu quá nên nản chí, quay xe ra về. Phần tôi, không hiểu sao, tôi tiếp tục bò tới gần cổng. Bổng dưng, không biết vì một lý do nào đó, người lính quân cảnh mở cửa cho ai vào đó, thế là tôi dựa hơi, phóng xe vào... Vào trong phi trường thì pháo địch bắt đầu rớt ào ạt, càng lúc càng mãnh liệt. Pháo rớt khắp nơi và quan trọng hơn cả là rớt rất là chính xác. Tôi biết tiền sát viên của giặc nhất định phải nằm đâu đó trong phi trường cho nên chúng nó mới bắn hay như thế. Cứ trong một tình trạng bình thường thì kiếm thằng chó đẻ này không khó, nhưng trong hoàn cảnh này thì tiền sát viên giặc có thể là bất cứ ai, từ anh lính mang cái băng đen với hai chữ "QC" đang đứng gác ngay cổng, cho đến ông thiếu tá Không Quân đang lái xe Jeep chạy vòng vòng trong phi trường. Và thiên hạ bắt đầu tháo chạy. Tôi dùng chữ Thiên Hạ đây nghĩa là từ lính cho đến quan, mọi nhân viên phần sở, từ dân bay cho đến dân không phi hành, chẳng còn ai làm việc nữa mà chỉ lo chạy. Tôi vào phi đoàn, phòng làm việc bỏ ngỏ. Câu lạc bộ cũng tan nát vì ăn pháo và bị đập phá để hôi của. Thật không còn một cảnh tượng nào đau lòng hơn. Đi lang thang, tôi tình cờ đụng đầu đại uý Hưởng. Hai anh em gặp nhau mừng quýnh. Chúng tôi bàn nhau một lúc rồi quyết định ra phi đạo tìm một chiếc tàu bay cất cánh. Cất cánh đi đâu thì chưa biết nhưng phải thoát ra khỏi cái phi trường Tân Sơn Nhất này. Tôi phóng lên chiếc xe Honda rồ máy, đại uý Hưởng ngồi sau. Tôi phóng Honda chạy giữa những trái pháo rớt, giữa giòng xe cộ, giòng người chạy tới chạy lui khắp nơi. Đang chạy, tôi nhìn thấy một người mặc áo bay, tướng lùn lùn mập mập đang vừa chạy vừa thở, vai ôm một cái túi nhà binh lớn. Tôi tới gần và nhận ra đó là Thiếu Tá Lý Bửng, trưởng phòng Hành Quân của phi đoàn tôi. Thế là tôi rà tới, thắng xe sát bên ông thầy, la lớn: -Thầy chạy đi đâu, lên xe đi với tôi. Nhìn thấy chúng tôi, Thiếu tá Bửng mừng quýnh người, liền phóng lên xe. Nhưng vì ông thầy phóng quá nhanh làm chiếc xe Honda bị mất thăng bằng, đổ nghiêng sang một bên. Tôi dựng xe lên đạp máy nhưng không sang số được vì cần đạp chân bị quẹo cong, cấn vào cần số. Chuyện nhỏ. Tôi bảo mọi người ngồi yên trên xe rồi bước xuống, móc cây P.38 ra, trở ngược, giộng báng súng xuống cái cần để chân. Chuyện này tôi làm hoài mỗi khi đi nhậu bị té xe nên chỉ sau chừng vài cú đập, cái cần để chân lại thẳng xuống như cũ. Tôi lại lên xe, đạp máy, lần này sang số ngon lành. Vào tới khu bãi đậu máy bay của phi đoàn, tôi mới biết là trong thiên hạ không phải chỉ có mình 3 người chúng tôi tìm đường đi. Tôi nhìn thấy một lô phi công đang leo lên cánh máy bay để kiểm soát bình xăng những chiếc phi cơ. Dựng xe sang một bên, chúng tôi liền chia ba đi coi cánh tàu bay. Nghĩ rằng tất cả những máy bay tốt và bánh căng đầy đều đã có người kiếm, tôi chỉ chọn những chiếc máy bay cũ, lại có bánh hơi xẹp là những chiếc mà theo tôi là đã bị thiên hạ chê. Quả nhiên, chỉ không lâu, tôi tìm thấy một chiếc L-19 với 2 cánh còn đầy xăng. Tôi leo lên vặn cọc bình vào rồi nhấn thử công tác, tạ ơn trời đất, chong chóng quay mấy vòng thật nhanh, đầy hứa hẹn. Đáng lẽ tôi là người lái chiếc đó vì tôi là người tìm ra máy bay, nhưng nể tình thầy trò, tôi nhường tay lái cho Lý Bửng, tôi và anh Hưởng ra ngồi phía sau. Ông Bửng cất cánh tại taxiway. Không hiểu lúng túng lạng quạng thế nào không biết, khi tống ga, tàu bay quay sang một bên, xém tí nữa thì lật mẹ nó con tàu. Nhưng số chúng tôi còn may nên chúng tôi bay lên được. Tôi ngồi sau không đội nón bay nên không biết ông Bửng liên lạc với ai. Sau chừng hơn một tiếng hay hai tiếng đồng hồ gì đó, tôi nhìn thấy hòn đảo Côn Sơn... Lúc ấy là vào khoảng 11 giờ sáng ngày 29-4-1975... 1 tháng sau, tôi chính thức đặt chân lên đất Hoa Kỳ, trại tị nạn Fort Chaffee tiểu bang Arkansas. Nằm trong trại tị nạn, chẳng có gì làm, tối ngày chỉ đi học Anh Văn rồi xếp hàng đi ăn rồi về nhà nằm ngủ, tôi có nhiều thì giờ để suy nghĩ về thân phận mình, đất nước mình. Tôi xin ghi lại những sự suy nghĩ của tôi. Trước hết, tôi nhận ra mình là một người may mắn. Hồi đó, số người di tản sang Mỹ đợt đầu tiên chỉ có 130 ngàn, đại đa số là những người làm sở Mỹ, những công chức cao cấp và thân nhân bà con của họ. Theo sự ước đoán của tôi, trong số 130 ngàn người sang được Hoa Kỳ này, chỉ có khoảng 20 ngàn, hoặc gần 20% là quân nhân lính tráng. Trong khi QLVNCH có một triệu người lính dưới cờ, con số gần 20 ngàn người sang được tới Mỹ là một con số quá ít, không tới 2%. Tôi nằm ở trong số 2 phần trăm này thì phải nói tôi là một người may mắn. (Giòng họ Lê nhà tôi chưa đến nổi bị tuyệt chủng, tôi nghĩ như thế.) Tôi luôn luôn nghĩ đến số phận của những anh em đồng đội, những người lính, những sĩ quan cấp tướng, cấp tá, cấp úy, những người lính an ninh cảnh sát, những chiến sĩ cán bộ Xây Dựng Nông Thôn mà Cộng Sản rất sợ. Ấn tượng kinh hoàng của cuộc thảm sát Tết Mậu Thân ở Huế vẫn còn ám ảnh tôi. Tôi không biết rồi một cuộc tắm máu thứ hai như kiểu Mậu Thân có thể xảy ra hay không. Thêm vào đó, tin tức cùng hình ảnh giết chóc tàn bạo của quân Khờ Me đỏ ở Thủ Đô Nam Vang khi bọn này tràn vào thành phố được báo chí quốc tế chụp được, đăng khắp nơi trên báo chí và truyền hình càng làm cho tôi kinh hãi đau đớn. Thành thật mà nói, với sự dã man tàn ác của VC, tôi nghĩ một cuộc tắm máu thứ hai khủng khiếp hơn kỳ Mậu Thân cả ngàn lần sẽ xảy ra, và có thể đang xảy ra ngay trên quê hương mình lúc này... Tôi đau đớn nghĩ đến những anh em và người thân của mình còn kẹt lại, nhưng không làm được gì để giúp họ. Thân phận của một con người thật là quá nhỏ so với bánh xe vĩ đại của lịch sử... Tôi ngẩm đi suy lại về cuộc đời bé bỏng và ngắn ngủi của miền Nam Việt Nam, bắt đầu từ tổng thống Ngô Đình Diệm cho đến cuộc đảo chánh năm 1963, rồi chỉnh lý lên chỉnh lý xuống cho đến khi nền Đệ Nhị Cộng Hòa được thành lập, và sau hết là những ngày tang thương cuối cùng của đất nước. Một quân đội oai hùng như thế, đánh tan giặc thù bao nhiêu năm, bao nhiêu lần, bao nhiêu chiến thắng để rồi cuối cùng lại bị thua một cách tức tưởi, nhục nhã và đau đớn... Rồi tôi ra trại tị nạn, hòa nhập với người Mỹ. Dĩ nhiên, những giờ phút ban đầu chập chửng luôn luôn là đầy dẫy những khó khăn nhưng không phải là không có những chuyện buồn cười, đáng thương đáng nhớ... Tôi lao đầu vào đời sống, ban ngày đi học, ban đêm đi làm. Mỗi lần mệt mỏi quá hay đôi lúc xuống tinh thần, muốn bỏ tay buông rơi, tôi lại nghĩ đến những người thân, những anh em đồng đội mình còn kẹt lại, giờ này đang oằn oại dưới bàn tay bạo tàn của bọn Cộng phỉ, tôi phải gượng dậy để tranh sống... Sự nghiệp văn chương của tôi bắt đầu bằng một bài viết bằng tiếng Mỹ, được đăng trong mục "Your Opinions" của tờ báo lớn nhất và duy nhất tại thành phố New Orleans là tờ The Times Picayune. Hồi đó, uất hận vì bị thua trận và thương xót cho những người Việt Nam vượt biển đi tìm tự do bị hãi tặc cưỡng hiếp, thảm sát trên biển cả, tôi viết đại một bài đăng lên mục "Ý Kiến bạn đọc". Tuy là ý kiến bạn đọc nhưng người Mỹ tuyển lựa rất kỹ càng, không phải ai viết cũng được đăng. Tôi buồn quá viết chơi, không ngờ bài được chọn đăng. Sau đó, cứ đến gần ngày 30 tháng 4 thì tôi viết một bài, mấy năm liên tiếp như thế. Một vài anh em Không Quân đọc bài tôi trên báo, bảo mày viết được tiếng Anh sao không viết thử tiếng Việt. Tôi viết thử, mới đầu là tùy bút, rồi đến truyện ngắn và truyện dài, truyện nào cũng thành công. Tôi copy lại 2 bài để quý vị đọc chơi và để hiểu tâm tình của tôi lúc ấy. * Bài thứ nhất viết năm 1984: Tưởng nhớ Việt Nam Một ngày nọ, đức Khổng Tử và đồ đệ đi thăm một ngôi làng nọ. Đây là một ngôi làng nhỏ và nghèo, nhưng mọi người xem ra sống rất là hạnh phúc. Đi một vòng, đức Khổng Tử bỗng nhìn thấy một người đàn bà đang ngồi khóc thảm thiết trong một chỗ vắng vẻ. Ngài đến gần người đàn bà và hỏi lý do. Người đàn bà bất hạnh nói: "Thưa ngài, khu vực này có rất là nhiều cọp. Trước đây khá lâu, cha tôi bị cọp ăn thịt. Gần đây, chồng tôi lại bị cọp ăn thịt, và mới ngày hôm qua, con trai tôi lại bị cọp giết chết. Nghĩ đến những điều bất hạnh này, tôi không cầm được nước mắt." Nhà triết gia vĩ đại ngạc nhiên hỏi: "Nếu ở đây có nhiều cọp như thế, tại sao bà không bỏ đi nơi khác mà sống?" Người đàn bà ngẩng mặt lên nhìn đức Khổng Tử và trả lời: "Thưa ngài, cho dù rằng ở đây có quá nhiều cọp và 3 thế hệ của gia đình tôi đã bị cọp ăn thịt, nhưng tôi sẽ không bao giờ rời bỏ nơi đây vì chính quyền địa phương biết thương yêu dân, chăm sóc và lo lắng cho dân." Sau một lúc suy nghĩ, đức Khổng Tử, người triết nhân vĩ đại nhất của Á Châu quay sang bảo môn đệ mình rằng: "Các ngươi phải ghi nhớ rằng một chính quyền tồi tệ còn nguy hiểm hơn bất cứ thứ gì trên cõi đời này." Kể từ khi miền Nam Việt Nam thất trận ngày 30-4-1975, một nửa triệu người Việt Nam đã bỏ quê hương ra đi. Trong 4000 năm lịch sử của dân tộc Việt Nam, chưa bao giờ có một số người lớn như vậy bỏ mồ mả tổ tiên mình mà đi. Đi không phải để chinh phục một vùng đất mới mà để được sống như là con người. Những người may mắn đến được bến bờ tự do không gì trở ngại, nhưng hàng trăm ngàn người khác đã bỏ mình trên biển cả. Nhiều người tới được bến bờ tự do nhưng phải trả bằng một giá kinh hoàng: tàu của họ bị hải tặc tấn công, đàn ông bị hành hạ và thảm sát, đàn bà bị hãm hiếp ngay trước mặt chồng, con. Mọi thứ trên đời này đều có giá phải trả. Trong 30 năm qua (tính từ 1954), những người Việt Nam hiền lành tội nghiệp này đã không ngừng trả giá để được sống trong tự do, nhưng cái giá cuối cùng mà họ phải trả để mua sự tự do thật là ngoài sức tưởng tượng của loài người. Ngày hôm nay, tưởng nhớ lại sự thất thủ của miền Nam Việt Nam 9 năm về trước, tôi, với tư cách là một công dân Hoa Kỳ, muốn gởi đi một vài thông điệp. Trước hết, cho những cựu chiến binh Mỹ và Việt Nam đáng quý. Sự hy sinh to lớn của quý vị sẽ không bao giờ được đền bồi xứng đáng, và trong đáy trái tim của mỗi một người Việt Nam chúng tôi, luôn luôn mang nặng hình ảnh của 50,000 chiến sĩ Hoa Kỳ đã từ bỏ tất cả để hy sinh, bỏ mình trên quê hương chúng tôi. Họ đã chấp nhận làm bóng tối để ánh sáng của mặt trời được trở nên rạng chói và tươi đẹp hơn, để cho hàng triệu đồng bào miền Nam Việt Nam được sống thêm 20 năm. Chúng tôi sẽ không bao giờ quên quý vị. Không bao giờ. Với những người Việt Nam đã đau đớn bỏ lại trái tim cùng linh hồn của mình ở bên kia bở biển Thái Bình Dương, xin đừng quên ngạn ngữ có câu: "Nơi nào còn có đời sống là nơi đó còn có hy vọng." Với những người đã hạnh phúc đem trọn vẹn cuộc đời mình vào mảnh đất của tự do và đầy cơ hội này, xin đừng quên rằng, quý vị đã được trang bị đầy đủ hơn những người Mỹ địa phương nhờ cái quá khứ đẩy cam go cực khổ của quý vị mà quý vị đã sống qua. Cho nên, đừng bao giờ để bất cứ một cố gắng nào trở thành cố gắng cuối cùng của quý vị, và đừng bao giờ dung túng bất cứ một sự yếu lòng nào. Quan trọng hơn cả, đối với những người Mỹ ở đây. Thương chúng tôi hay ghét chúng tôi, ca tụng chúng tôi hay nguyền rủa chúng tôi, chúng tôi bây giờ là một phần của quý vị. Chúng ta cùng chia chung một số mạng giống như nhau. Chúng ta đừng hổ thẹn và cũng đừng hãnh diện với cái quá khứ tràn ngập những máu và đau buồn của chúng ta. Chúng ta hãy nghĩ đến con cái chúng ta, và một lần nữa, chúng ta hãy cùng nhau tự hỏi mình một câu hỏi mà tổng thống Kennedy đã hỏi chúng ta cách đây khoảng 20 năm: "Chúng ta sẽ làm được gì cho tổ quốc mình." Nhi xuan le - Phi Công QLVNCH * Bài thứ hai viết năm 1985: Cuộc thảm sát Miền Nam VN 10 năm về trước, tổ quốc thân yêu của tôi, miền Nam Việt Nam xinh đẹp đã bị thảm sát một cách dã man bạo tàn. Là một phi công đã tình nguyện và chiến đấu trong cuộc chiến đó, tôi nghĩ tôi phải chịu trách nhiệm về cuộc đầu hàng nhục nhã đó và đã từng sống với vết thương lòng đau đớn kể từ ngày ấy. 10 năm sau, kẻ thù của tôi ồn ào tưng bừng tổ chức lễ kỷ niệm 10 năm cái ngày mà hàng triệu người VN đã trở thành nô lệ. Ngạc nhiên thay, các cơ sở truyền thông trên thế giới lại dùng những giờ phút ăn khách nhất để truyền bá những hình ảnh kỷ niệm đầy đau thương này, làm như đó là chiến thắng của chính họ. Chúng tôi, người dân miền Nam - những người đã từng chịu không biết bao nhiêu là đau khổ trong cuộc chiến đó suốt 30 năm - coi những chương trình đó với nước mắt và tiếc nuối. Tôi biết rằng tôi quá nhỏ bé, yếu đuối, hèn nhát và có lẽ còn quá già để nuôi mộng trở về Việt Nam chiến đấu, Nhưng, là một người lính QLVNCH, tôi biết rõ quân đội tôi đã chiến đấu anh dũng như thế nào để bảo vệ quê hương mình, và tôi từng nuôi một giấc mộng nhỏ. Giấc mộng của tôi là một ngày nào đó, tôi có thể chia sẻ với những người bạn Hoa Kỳ, những người cũng đã từng chịu đau khổ như chúng tôi trong cuộc chiến đó về cuộc chiến đấu oai dũng của QLVNCH. Trước hết, họ không phải là những kẻ "mới sinh ra đời đã là chiến sĩ"-- họ chỉ là những con người đơn giản như bạn và tôi, những con người bình thường đơn giản với xúc cảm, biết tôn trọng thượng đế, biết yêu thương đồng loại và biết ghét sự bạo tàn. Sinh ra trong một đất nước hoang tàn vì chiến tranh, lớn lên và trưởng thành trong sự nghèo khổ, họ yêu thương quê hương của họ như những đứa con hiếu thảo sinh ra trong nhà nghèo biết yêu thương gia đình mình. Họ biết rằng đối với một nước nhỏ bé như Việt Nam, cả tư bản lẫn Cộng Sản đều không thể áp dụng được. Nhưng giữa hai con ác quỷ, họ phải chọn cái nào ít quỷ hơn. Họ phải chiến đấu chống nhiều kẻ thù một lần: bọn Cộng Sản ở chiến trường để đánh, sự nghèo khổ của gia đình ở hậu phương cần phải khắc phục, sự tham nhũng của cấp lãnh đạo mà họ phải đối phó, và cả một khối truyền thông ác độc của thế giới mà họ phải chịu đựng. Bọn Cộng Sản ở chiến trường thì dễ đánh. Sự nghèo khổ của gia đình ở hậu phương thì khó khăn hơn. Với số lương chỉ đủ tiền mua gạo, và một số lớn của họ chỉ được về nhà có 2 tuần một năm, những người lính Cộng Hòa này vẫn khéo léo nuôi nấng gia đình họ và gởi con cái đến trường học. Cuộc tranh sống của họ càng trở nên gay gắt hơn vì tham nhũng lan tràn khắp nơi, trong mọi tầng lớp, cộng thêm sự lãnh đạo ngu dốt của một số cấp chỉ huy của họ. Một số cấp chỉ huy cao cấp này - những người được bảo vệ và vinh danh bằng máu của chính những người lính của mình - còn lấy cắp tiền của họ và đối xử với họ như những người nô lệ. Khi Saigon thất thủ, chính những người này là những kẻ bỏ chạy sang nước ngoài đầu tiên. Kém may mắn thay, cái gánh nặng nặng nhất mà họ phải gánh chịu lại chính là khối truyền thông của thế giới tự do. Hình như có một âm mưu thâm độc nào đó muốn làm cho miền Nam Việt Nam xuất máu cho đến chết. Cuộc chiến chống lại bọn Bắc quân xâm lượt, được sự giúp đở của toàn thể thế giới Cộng Sản được gọi là cuộc "nội chiến". Những người lính QLVNCH luôn luôn bị hạ nhục còn kẻ thù Cộng Sản thì lại được ca ngợi. Trong khi QLVNCH mất mỗi tuần 1000 người lính thì người Mỹ nhìn thấy những hình ảnh trên TV chiếu những cảnh bỏ chạy của họ và đọc trên báo với những câu như "QLVNCH không chịu chiến dấu." Phải chiến đấu trong một hoàn cảnh khắc nghiệt như vậy, những người lính QLVNCH đã anh dũng gìn giữ được quê hương mình trong 30 năm. Một triệu rưởi người lính QLVNCH đã nằm xuống, những người còn lại chiến đấu cho đến giây phút cuối cùng. Sức mạnh nào mạnh đến nỗi đã giúp họ để cho họ có thể chịu đựng được những sự khắt nghiệt bất công này lâu như thế. Bạn ơi, xin thưa, đó là tình yêu thương. Họ biết rằng nếu họ tiếp tục chịu đựng cay đắng để chiến đấu, chỉ có mình họ chịu khổ mà thôi, nhưng nếu họ bỏ cuộc, tất cả mọi người trong nước đều bị khổ cả. Bây giờ, hàng trăm ngàn người lính này đã bị đày đọa trong trại tù suốt 10 năm qua. Dĩ nhiên, bọn Cộng Sản quá khôn để mà đem họ ra giết chết hết một lần. Chúng nó giết họ một cách thâm độc hơn: bắt họ làm việc cho đến chết trong tù. Tôi xin phép được chấm dứt bài viết này bằng một câu của thân phụ, nói với em tôi năm 1975, trước khi người lên đi vào trại tù: "Ba bây giờ đã nằm trong tay của kẻ thù. Chúng nó có thể tiêu diệt ba, tra tấn hành hạ ba, làm tất cả những gì chúng nó muốn đối với ba. Nhưng ba bảo đảm với con một điều, chúng nó không thể khuất phục ba được. Ba là người, và con người chỉ có thể bị tiêu diệt chứ không thể làm cho bị khuất phục được."
|