Hà Nội: 1948-1954, những năm tháng cũ (1) |
Tác Giả: Đỗ Văn Minh | |||
Thứ Bảy, 23 Tháng 7 Năm 2011 06:37 | |||
Hà Nội từng là thủ đô của nước Việt nam trong gần 800 năm từ thời nhà Lý đầu thế kỷ thứ 11 tới thời Lê mạt cuối thế kỷ thứ 18 Vào một ngày khoảng đầu tháng 8 năm 1954, khi từ bến Sáu Kho Hải Phòng bước lên tàu Ville de Saigon để theo gia đình di cư vào Nam, tôi không hề nghĩ là phải một thời gian lâu lắm tôi mới trở lại đất Bắc. Ấy thế mà sau khi rời quê hương miền Bắc từ Cảng Hải Phòng bằng đường thủy, phải chờ suýt soát nửa thế kỷ, quá nửa đời người, tôi mới trở về đất Bắc bằng đường hoả xa, đặt lại bước chân đầu tiên trên thủ đô Hà Nội tại ga Hàng Cỏ ở đường Hàng Lọng, những tên gọi xa xưa của Hà Nội băm sáu phố phường. Khi bước chân ra ngoài nhà ga, trời còn mờ sáng, nhìn chưa rõ mặt người. Quang cảnh chung quanh thật ồn ào, náo nhiệt: Tiếng chào mừng của thân nhân đi đón nhau, tiếng rao của những người bán hàng, tiếng mời mọc của những anh lái xe ôm, của tài xế xe taxi, tất cả đã tạo thành âm thanh của một tiếng nói lạ tai. Cái tiếng nói này, khi mới về Việt Nam ở Sài Gòn, tôi đã nghe từ một cô xướng ngôn viên đài truyền hình và lúc ấy tôi không chú ý đến cho lắm vì chỉ là một tiếng nói lẻ loi, nhưng lúc này tôi mới cảm thấy xa lạ, vì nó không giống chút nào với tiếng nói mà tôi vẫn hằng quen thuộc của người Hà Nội thuở xưa. Thế rồi dần dần tôi mới nghĩ ra là thời gian đầu thập niên 1950, Hà Nội chỉ có khoảng 300,000 người mà nay dân số đã lên đến trên 3 triệu, gia tăng gấp 10 lần. Năm 1954, nhiều người Hà Nội đã di cư vào Nam, nhiều người Hà Nội khác, vì việc mưu sinh sau đợt đánh tư sản, đã phải về các miền quê, tỉnh nhỏ. Trong khi đó thì dân tứ xứ lại đổ xô tới khiến Hà Nội mất dần sắc thái riêng, trong đó có cái tiếng nói được gọi là của “người Trường An thanh lịch”. Tuy diện tích Hà Nội cũng tăng gấp 10 lần so với trước kia, tương ứng với đà gia tăng dân số, nhưng hầu hết số dân này lại tập trung trong khu nội thành, gần như tương đương với diện tích của toàn thể thành phố Hà Nội thời trước. Cho nên thành phố trở nên đông đúc khác thường, xe cộ đầy đường, có những phố khi xưa cả ngày lúc nào cũng đìu hiu vắng vẻ thì nay tấp nập người qua kẻ lại không ngớt. Không thiếu gì các cao ốc hai, ba chục từng. Cảnh tượng phố phường Hà Nội nhộn nhịp không khác với Sàì Gòn là bao. Vì đã sống ở Sài Gòn cả hơn một tháng trước khi ra Bắc nên tôi không đến nỗi quá sửng sốt nhưng cũng không tránh khỏi ngậm ngùi trước cảnh thay đổi của Hà Nội so với gần 50 năm trước khi thành phố này còn vắng vẻ, cuộc sống còn lặng lẽ, êm đềm. Hà Nội từng là thủ đô của nước Việt nam trong gần 800 năm từ thời nhà Lý đầu thế kỷ thứ 11 tới thời Lê mạt cuối thế kỷ thứ 18. Nhưng trong các năm 1948-1954 này, Hà Nội chỉ còn là thủ đô của Bắc Phần, trước kia là Bắc Kỳ theo tên gọi thời Pháp thuộc. Hà Nội nằm dọc theo hữu ngạn sông Hồng Hà, nôm na gọi là sông Cái, hoặc còn gọi là Nhị Hà, vì trước khi tới Hà Nội, sông Hồng đã tách ra 1 nhánh nhỏ hơn gọi là sông Đuống chảy ngang qua Hải Dương. Thành phố trải dài từ phía bắc cầu Long Biên (Paul Doumer) qua viện Bảo Tàng (Louis Finot), Bệnh Viện Đồn Thuỷ (Lanessan) xuống tới phiá nam Phà Đen, nơi có một trung tâm huấn luyện Sỹ Quan và Hạ Sỹ Quan cho Quân Đội Quốc Gia của thời kỳ mới thành lập. Nói đến hồ Hoàn Kiếm thì thoạt tiên phải kể tới Tháp Rùa. Tháp này xây trên 1 hòn đảo nhỏ ở lui về phía nam và gần với bờ phía tây của hồ. Tháp có 2 tầng với một vòm nhỏ hơn ở trên cùng. Khoảnh đất chung quanh tháp có chiều rộng từ 3 đến 5 thước. Tương truyền rằng đây chính là địa điểm Thần Kim Quy đã lấy lại kiếm thần từ vua Lê Thái Tổ. Rùa Thần có thật chăng thì không rõ, nhưng thực sự dưới hồ có rùa và là rùa rất lớn. Trong những ngày hè oi bức, thỉnh thoảng rùa đã bò lên nằm im sưởi nắng dưới chân tháp hàng tiếng đồng hồ. Tôi đã nhiều lần khi đi ngang từ bờ hồ phía đông nhìn thấy, mai rùa lớn, to bằng cái nong, chắc chắn đường kính phải trên 1 thước, có thể tới gần 2 thước. Dường như dưới hồ không phải chỉ có một con ruà lớn như thế, tuy tôi chưa bao giờ thấy hai con cùng lên nằm dưới chân tháp một lúc. Ngày nay có lẽ ít ai còn nhớ rằng cầu Thê Húc đã một lần bị sập (cũng như cầu Thị Nghè ở Sài Gòn bị sập vào năm 1957 trong dịp Hội Chợ Thị Nghè khiến có một số người bị thương và chết). Tối Trung Thu rằm tháng tám năm 1949, dân chúng Hà Nội đổ ra chơi quanh hồ Hoàn Kiếm, đua nhau vào thăm đền Ngọc Sơn. Qua cầu Thê Húc, vì người qúa đông, chen chúc nhau nên cầu lung lay rồi đổ sụm xuống. Nhưng cầu rất ngắn và thấp, cách mặt nước không xa, cho nên không có ai chết hoặc bị thương nặng, hầu hết chỉ phải một phen hoảng sợ và quần áo bị ướt sũng mà thôi. Khi kể những sự tích về Hồ Hoàn Kiếm, có mấy địa điểm ít được ai nhắc nhở tới. Một địa điểm khác là ở mặt tây Hồ Gươm trên đường Lê Thái Tổ gần phố Bảo Khánh có Đền Vua Lê trong một tòa nhà có vườn và tường bao chung quanh, từ đây trông thẳng qua bên kia đường là thấy Trấn Ba Đình. Hàng năm trong dịp kỷ niệm vua Lê Thái Tổ, thành phố có tổ chức tế lễ tại đây. Tôi ở Hà Nội gần 6 năm, đi qua Hồ Hoàn Kiếm không biết bao nhiêu lần mà chưa bao giờ có dịp vào thăm bên trong Đền Vua Lê. Nằm ở một địa điểm vắng vẻ nhất toàn khu quanh hồ Gươm, lại không có một lối kiến trúc khác thường nào cho nên Đền Vua Lê ít người biết tới cũng không phải là điều đáng lạ. Sau hết là Đền Bà Kiệu nằm ở trên mảnh đất hình tam giác góc phố Hàng Dầu đâm ra phố Đinh Tiên Hoàng, trông sang bên kia đường là cổng Đền Ngọc Sơn. Đền Bà Kiệu dường như đã bỏ hoang từ lâu, còn lại chỉ là một toà miếu nhỏ với một cây đa lớn bên cạnh, không có người coi sóc và hàng ngày nguời qua kẻ lại nhưng không mấy ai để ý tới. Theo nhà văn Nguyễn Triệu Luật trong cuốn “Bốn con yêu và hai ông đồ” thì vào thời cuối Nhà Lê, thành Thăng Long có bốn con yêu, tất cả đều là yêu nữ: Đây là ngôi chuà Tàu do một người Khách Minh Hương lập nên. Giữa sân chùa có một cây liễu già xù xì lâu ngày thành tinh. Con yêu gốc liễu này tác quái không ai dám ở nên chùa trở thành hoang phế và đến ngày nay không hiểu sao lại trở thành tên là Đền Bà Kiệu. Quanh Hồ Hoàn Kiếm ở phía nam là một khu đất rộng, như một công viên, nhiều cây cối nhưng quang đãng. Từ cuối xuân qua hè sang đầu thu, có những hàng nước nhỏ với dăm ba cái bàn và mỗi bàn bốn ghế, sáng đến tối về, bán nước cam, nước chanh, nước dừa cho khách nhàn du nghỉ chân giải khát. Góc phía đông nam giáp với đường Đinh Tiên Hoàng và phố Hàng Khay có nhiều quán bán hoa từ những làng trồng hoa gần hồ Tây như Ngọc Hà, Yên Phụ đưa tới. Hoa bán ở đây chắc hẳn giá phải đắt hơn những nơi khác vì địa điểm này nằm trong khu phố Tây, và những khách hàng thường là những người tây phương lắm tiền nhiều bạc. Còn phải kể thêm mấy nhân vật Hồ Gươm mà các học sinh chúng tôi của những năm đầu thập niên 1950 chắc không sao quên được. Kế đó là anh Tàu bán thịt bò khô mà địa điểm hành nghề lúc nào cũng ở bên hông cửa hàng kem Hồng Vân, trên cao trông xuống quán Mụ Béo ở phía nam bên dưới và xa xa về hướng đông nam là khu đền Ngọc Sơn cây cối um tùm. Anh Tàu này có thân hình cao và gầy guộc, lúc nào cũng bận bộ áo cánh quần dài màu đen. Anh ta bán mỗi đĩa một đồng, thịt bò khô trộn với đu đủ bào mỏng pha với một thứ nước mắm chua ngọt cay cay. Hầu như lúc nào cũng có hai ba người, phần lớn là học sinh, đứng chung quanh, ăn xong xuống quán Mụ Béo ngồi ngắm phố phường, uống cốc nước chanh đá thì tưởng không gì thú vị cho bằng. Cuối cùng là ông Tàu già bán lạc rang, còn gọi là phá-xa, mùa hè cũng như mùa đông, lúc nào cũng quanh quẩn ở bên tháp Hòa Phong. Ông Tàu này già hơn và mập mạp hơn anh Tàu bán thịt bò khô, đeo trước bụng một cái thùng thiếc có bao quanh bằng một lớp vải bông để ủ giữ cho lạc lúc nào cũng ấm. Cũng với giá một đồng một múc bằng cỡ một vốc nắm tay, cái thứ lạc trộn húng lìu được rang lên, hột lạc tròn và đều nhai dòn tan. Vào những chiều đông lạnh, ông Tàu già này đứng tránh gió trong lòng tháp, nhưng khách hàng quen thuộc vẫn biết để dễ dàng tìm ra. Năm 1957, ở Sài Gòn, một lần tôi trông thấy ông Tàu già bán lạc rang này đang lang thang trên đường Lê Văn Duyệt trông sang cửa vườn hoa Tao Đàn phía bên kia đường. Không thấy ông đeo cái thùng thiếc trước bụng nữa, và trong Nam trời nóng quanh năm, hẳn ông không còn bán cái thứ quà chỉ thích hợp với khí hậu Hà Nội mà thôi. Tôi không bao giờ gặp lại ông Tàu gìa này nữa, cũng như không còn thấy lại anh Tàu bán thịt bò khô mà tôi đã ăn không biết bao nhiêu lần! Tôi không khỏi ngậm ngùi mỗi khi nghĩ đến Trở lại hồ Hoàn Kiếm thì vì ở một vị trí thuận lợi nên đây còn là nơi để các tổng cuộc thể thao Bắc Phần thỉnh thoảng tổ chức những buổi trình diễn thể thao như đua xe đạp hay bơi lội. Chợ phiên ở Hà Nội được tổ chức lần đầu trong khoảng một tuần vào dịp tết Canh Dần, đầu năm 1950 tại sân trường trung học Chu Văn An, lúc đó trường sở nằm ở trường nữ trung học Đồng Khánh cũ tại phố Hàng Bài. Dù chợ phiên mở tại một địa điểm chật hẹp, nhưng vì là lần đầu nên vẫn có nhiều người lui tới. Chỉ chừng hơn một tháng sau, đúng vào những ngày đầu xuân Tân Mão cuối tháng 1 năm 1951, thành phố lại tổ chức chợ phiên lần nữa, và lần này ngay tại hồ Hoàn Kiếm. Khu vực chợ phiên được rào kín chung quanh ở phía tây dọc theo đường Lê Thái Tổ, từ trước nhà Thủy Tạ kéo dài xuống tới gần sở cẩm Hàng Trống quây lại gần phân nửa vườn hoa phía nam hồ. Ranh giới khu vực chợ phiên dựng trên lề đường phía bên hồ cho nên đường Lê Thái Tổ và khúc đường Hàng Trống nối tiếp xe cộ vẫn lưu thông được như thường. Địa điệm thuận lợi ngay trung tâm thành phố, cho nên chợ phiên kéo dài trên hai tuần mà khách vẫn tấp nập vào ra. Lại vào dịp lễ Giáng Sinh tháng 12 năm 1951, chợ phiên được mở lần này tại Ấu Trĩ Viên trên đường Lý Thái Tổ, gần góc công viên Chí Linh. Điều đáng nói tới nhất là chợ phiên này cho tổ chức đánh bạc tự do mà mục đích được cho biết là để lấy tiền giúp cho binh sĩ và gia đình trong dịp Tết Nguyên đán sắp tới. Đây là một hình thức kiểu như Cây Mùa Xuân sau này. Nghe nói Thống Tướng De Lattre de Tassigny, Tổng Tư Lệnh Quân Đội Pháp kiêm Cao Ủy Pháp tại Đông Dương đề nghị thực hiện. Chợ phiên này lúc nào cũng đông đảo, thiên hạ không có mấy dịp được tha hồ tự do chơi trò đen đỏ như thế này. Tin báo chí cho biết có người vì thua bạc mà tự tử, có gia đình xào xáo đi đến tan vỡ. Cũng may mà chợ phiên chỉ mở không qúa hai tuần. Rồi cũng như một năm trước, chợ phiên lại đuợc tổ chức ở hồ Hoàn Kiếm, địa điểm và cách thức cũng y hệt như năm ngoái, vào dịp đầu năm Nhâm Thìn, tháng 1 năm 1952. Ban tổ chức lần này có một sáng kiến. Họ cho bắc một nhịp cầu phao (ponton) từ bờ hồ ra tới Tháp Rùa, chọn đoạn đường ngắn nhất, vào khoảng trên 50 thước. Ai muốn đi qua cầu để lên thăm Tháp Rùa thì mua vé giá 5 đồng một người, giá của một bát phở thời đó. Ấy thế mà người ta đua nhau ra coi, trong số đó có tôi, để không bỏ lỡ cơ hội có một cảm giác đặc biệt, cảm giác đã đặt chân lên một di tích lịch sử có tính chất huyền thoại. Đây cũng là kỳ chợ phiên cuối cùng ở Hà Nội, những năm sau đó chắc vì tình hình chiến sự ngày càng nặng nề nên thành phố không nghĩ đến chuyện tổ chức tiếp nữa. Người Hà Nội có câu: ở đây đi lạc đường, cứ tìm đến được hồ Gươm là sẽ kiếm ra lối về nhà, vì ở Hà Nội đường nào cũng dẫn tới hồ Gươm. Đúng thế! Mấy chục năm xưa, người Pháp làm ra một hệ thống đường xe điện (tramway) đi quanh các khu phố Ta và trạm đậu chính nằm bên con đường ngay trên phía bắc hồ Gươm, trông thẳng vào khu phố cổ Ông Tây không cho xe điện chạy quanh trong khu phố Tây, vì ông Tây Bà Đầm không đi xe điện, cần đi đâu họ đã có xe ô-tô hay xe tay do phu xe kéo. Từ điểm xuất phát tại hồ Gươm này, có 3 lộ trình xe điện chạy đưa đi khắp các khu phố ta… Tới đây là bắt đầu vào khu ngoại ô phía đông nam Hà Nội, sau cùng đi tiếp là đến Bạch Mai.
|