Đồng hồ báo thức lúc ba giờ sáng, Phong tốc mền rời khỏi giường, tập vài động tác thể thao cho tỉnh táo rồi vào toa-lét làm vệ sinh. Xong phần thủ tục sơ sài buổi sáng, Phong khoác chiếc áo lạnh vội vàng lên xe chạy một mạch đến nhà kho nhận báo đi bỏ cho khách hàng.
Trời California được tiếng là ấm áp, nhưng cái rét của mùa Giáng sinh cũng đủ làm tê cóng cả tay chân. Phong mới qua Mỹ chưa đầy một năm, dành dụm tiền trợ cấp mua được chiếc xe Ford Mustang đời 80, chạy bốc, cứng cáp nhưng khổ nỗi, xe tám máy uống xăng thần sầu. Phong vào lớp ESL ban ngày, ghi tên học thêm ban đêm lớp Anh ngữ đàm thoại chờ đủ một năm chàng sẽ xin vào Đại Học Cộng Đồng. Tiền trợ cấp vừa hết, là được hãng báo San Jose Mercury News gọi đến nhận một route báo 200 tờ bỏ buổi sáng mà Phong đã ghi tên xin việc từ tuần trước. Vùng thung lũng điện tử này gặp thời điểm kinh tế Hoa kỳ đang hồi trì trệ, việc làm assembly chỉ ưu tiên cho người có kinh nghiệm. Riêng nghề bỏ báo chẳng cần kinh nghiệm, chẳng cần huấn nghệ. Một vài lần lái xe quan sát địa chỉ khách hàng trong danh sách là thực hiện được ngay. Nghề bỏ báo thuê lại có thời gian thuậân lợi để cắp sách đến trường. Phong được route báo sớm sủa cũng nhờ ông thầy cũ qua Mỹ đã mười hai năm, mà thâm niên nghề bỏ báo đến mười một năm. Ông quen thân hầu hết các ông quản lý nhà kho chứa báo. Hàng năm, vào ngày lễ Giáng sinh, ông chở một xe quà tặng cho tất cả “ giới chức” trong văn phòng. Người hộp bánh, kẻ chai rượu kèm theo thiệp chúc Giáng sinh và Năm Mới rất trịnh trọng. Nhờ cái cảm tình đặc biệt đó mà vợ chồng ông có route báo sát nhà gần bốn trăm tờ buổi sáng. Ông có lối so sánh rất thực tế: “Muốn tập thể dục tại các club phải mua thẻ hội viên và trả tiền hàng tháng. Nghề bỏ báo có khác gì chạy bộ thể dục mỗi buổi sáng đâu, lại được người ta trả tiền. Tôi chạy bộ đã mười một năm nay chẳng hề lo áp huyết cao, áp huyết thấp. Bà xã của tôi trông còm cõi như thế mà khỏe đáo để, cũng chỉ vì bả dành phần chạy bộ nhiều hơn tôi”. Ông thầy cũ của Phong trở thành “Cai thầu bất đắc dĩ”. Route báo nào carrier bỏ ngang xương, route nào bị đuổi việc đều được quản lý thông báo cho ông. Nhờ vậy mà các gia đình Việt Nam mới đến định cư được mau chóng gia nhập vào lực lượng bỏ báo càng ngày càng đông đảo. Phong tấp xe vào bãi đậu xe, nhanh chân vào phòng đẩy chiếc xe cart đến xếp hàng. Carrier gồm nhiều sắc dân, đủ loại tuổi tác. Riêng người Mễ Tây Cơ và Việt Nam chiếm đa số. Nhận báo xong, Phong đẩy xe đến khu xếp báo, nơi đặt nhiều dãy bàn . Hôm nay thời tiết lạnh nhưng khô ráo nên không cần bỏ báo vào túi nylon. Những dãy bàn cách nhau khá rộng đủ cho hai chiếc xe đẩy. Người đứng bên kia, kẻ đứng bên này, tay làm, miệng trò chuyện với nhau đủ các loại đề tài, đủ các loại ngôn ngữ. Ở Việt Nam, mấy ông phó hù (thợ hớt tóc) là nổi tiếng biết nhiều chuyện. Ngồi hớt tóc mà nghe ông kể chuyện từ đông sang tây như ông đã từng đi chu du khắp đó đây. Bây giờ ở Mỹ mấy ông bỏ báo có thua gì ông phó cạo đâu. Ông nào cũng thông thái cả. Gặp đợt bầu cử, kẻ bênh đảng Dân Chủ, người bênh Cộng Hòa cãi chí chóe rồi sừng sộ, ném báo vào nhau. Đứng đối diện với Phong là một ông người Mễ lớn tuổi cùng cô vợ rất trẻ, có lẽ bằng nửa tuổi ông ta. Nghe đâu ông về Mexico cưới cô nàng. Nghề nghịêp chính của ông là làm công nhân xây dựng, route báo là phần phụ trội kiếm cho vợ. Ông cố gắng huấn luyện cho vợ thành thạo cái “nghề” bỏ báo này, dần dần cô sẽ thay ông đảm trách một mình. Ông chỉ giúp nàng vào ngày cuối tuần. Nhà cửa có sẵn, nàng chỉ phụ thêm tiền trả nợ ngân hàng. Bà vợ trước bỗng dưng bỏ đi để ông sống cô đơn trong căn nhà ba phòng, phải cày hai job mới đủ trả nợ. Giờ thì lão khôn ra. Căn nhà, cho người ta thuê lại hai phòng nên nhẹ gánh tiền bill hàng tháng. Rút kinh nghiệm, lần nầy lão về nước tìm cô vợ tận vùng quê nơi mà phụ nữ có cuộc sống đơn giản chẳng có mơ ước cao xa. Ông tâm sự : Người đàn bà Mễ mà có gốc gác chắc chắn ở cái xứ tự do này, họ trở chứng như ngựa không cương. Trước đây, lão loay hoay xếp báo một mình, giờ có hai người nên lão có vẻ thảnh thơi. Chồng lái xe, vợ mang báo bỏ tận hiên nhà cho khách hàng rất thuận lợi. Nay thì đã quen việc, nàng cũng không thua gì chồng về kỹ thuật quăng báo qua cửa xe. Dãy bàn phía bên kia, một thanh niên Mễ cao ráo vừa xếp báo vừa huýt sáo theo điệu nhạc đồng quê, chốc chốc liếc mắt nhìn trộm cô vợ trẻ đứng bên ông chồng già. Mái tóc nâu hớt cao rất hợp với nước da trắng hồng, lại thêm hàng ria mép duyên dáng, đôi lông mày dài đen kịt làm tăng thêm vẻ khỏe mạnh, hào hoa của người nghệ sĩ. Buổi liên hoan mừng Chúa Giáng Sinh vừa qua do hãng báo tổ chức, anh chàng đã trổ tài với ngón đàn guitare thật điêu luyện. Cô vợ trẻ thỉnh thoảng phóng ánh mắt về phía có tiếng đàn réo rắt nhưng cũng không quên đưa ánh mắt đa tình nhìn chồng nở nụ cười rạng rỡ, khoe đôi hàm răng óng ánh như hàng ngọc dưới những dãy đèn điện sáng choang. Đôi rèm mi dài cong không che được ánh mắt đầy rạo rực tình yêu của cô nàng. Đẩy xe đầy báo đến chiếc Ford, Phong mở nắp thùng sau sắp báo vào cốp, số còn lại bỏ vào ghế trước. Trả xe cart về chỗ cũ , chàng lên xe lái về hướng khu khách hàng của mình. Một tay điều khiển vô-lăng, tay kia ném báo qua cửa xe, Phong cử động như một Rô-bô. Thông thường, địa điểm lý tưởng gởi báo cho thân chủ là nằm ngay cửa garage, trong hàng rào hoặc trên hiên nhà. Những khách hàng nào có yêu cầu bỏ báo trước cửa chính được ghi trong danh sách thì carrier mới xuống xe chạy bộ vô nhà. Những route báo tốn thời gian nhiều nhất là khu apartment, và những chung cư nhiều tầng. Riêng route báo của Phong cũng không khó khăn lắm. Một tiếng đồng hồ lái xe loanh quanh khu vực single-house, và khu mobile-home là số báo trên xe hết sạch. Chàng có thể thảnh thơi ghé vào tiệm Mc Donald “to go” cái bánh ăn sáng với ly cà-phê về nhà nhâm nhi. Sáng hôm nay, cơn bão cấp hai được loan báo sẽ thổi vào vùng Vịnh. Ngoài trời, mưa đã bắt đầu nặng hạt. Phong thức dậy với thân thể mỏi nhừ. Nếu nghỉ dễ dàng có lẽ Phong sẽ nằm vùi trong đống chăn ấm. Nghề bỏ báo, một tháng ba mươi ngày, không được nghỉ ngày nào và cũng chẳng được một quyền lợi nào dành cho carrier. Dần dà cơ thể con người thích hợp với khí hậu dù nắng hay mưa. Sự mỏi mệt cũng sẽ tan biến khi những cuộn báo đầu tiên theo cánh tay vung ra. Phong lái xe vòng vòng trong khu đậu xe tìm chỗ, bất chợt một phụ nữ đội áo mưa băng qua trước mũi xe chàng rồi chui vào chiếc xe màu trắng có người bên trong mở cửa đợi. Người đàn bà bỏ áo mưa ra, Phong mới nhận ra là cô vợ trẻ. Bên trong nhà kho, ông Mễ già khệ nệ bưng những chồng báo nặng nề bỏ vào xe đẩy . Một chốc sau, cô vợ trẻ hổn hển chạy vào phòng đến đứng bên chồng làm cái công việc hàng ngày. Khuôn mặt tròn trịa, ánh mắt đa tình, mơ màng hơn mọi khi. Anh chàng Mễ nghệ sĩ từ ngoài sân đi vào, miệng không ngừng huýt sáo, trông chàng hân hoan lắm. Ngoài trời, từng cơn gió giật nổi lên liên hồi mang theo tiếng hú, tiếng gầm rùng rợn như con vật khổng lồ vô hình đang trườn mình trên những ngọn cây ngã rạp, quằn quại dưới bầu trời mây đen vần vũ. Người quản lý đi từng bàn nhắc nhở carrier bỏ báo vào túi nylon cột dây cao su thật chặt. Với cơn mưa như trút nước này, báo vất giữa trời dễ bị thấm ướt, khách hàng sẽ khiếu nại, hãng báo mất thân chủ, người bỏ báo sẽ bị trừ tiền. Gió gầm thét, mưa ào ào, carrier vẫn lên xe như đoàn quân xông trận tỏa đi tứ hướng. Phong lượn xe theo từng con đường đầy ngập lá, cành cây gẫy rơi vãi trên lối đi. Với tốc độ cẩn trọng, chàng cố gắng liệng cuộn báo sát hiên nhà hoặc bao lơn. Gặp ngày mưa gió thế này, carrier phải tốn gấp đôi thời gian cho route báo của mình. Nghề nào cũng gặp cái khó của nó. Tiền công bỏ một tờ báo chỉ có mấy cent, nhưng rũi ro ném bể kính cửa sổ nhà của khách hàng là phải đền cả trăm bạc. Chưa tính đến lúc sửa xe, thay lốp ... quả là cái nghề “ăn cám trả vàng”. Vợ chồng kỹ sư Trung đã có công việc chuyên môn đúng ngành nghề tại hãng điện tử IBM, đã mua được hai căn nhà còn lãnh thêm route báo 300 tờ nữa. Phong ngạc nhiên lắm. Nhân lúc đứng xếp báo, Phong nêu thắc mắc với chàng kỹ sư điện tử ấy và được giải đáp như sau: - Tiền lương chính của vợ chồng mình vừa đủ trả các loại bill và dành dụm hàng năm lấy vacation cho gia đình đi chơi mươi ngày, nửa tháng. Riêng việc bỏ báo này, chúng tôi kiếm thêm tiền để viện trợ cho gia đình hai bên còn ở lại Việt Nam. Bên nhà, ông bà nội, ông bà ngoại cứ khoe với bà con láng giềng là con rể, con dâu đều là kỹ sư điện tử ở Hoa kỳ. Lương hàng năm của chúng nó đến cả tỷ đồng Việt Nam chứ ít đâu. Nay chúng nó đã tậu được hai căn nhà, mà nhà ở Mỹ giá đến mấy trăm ngàn Mỹ kim. Gớm, tiền nhiều đến thế, làm sao chúng xài cho hết. Vì vậy, cha mẹ, cô chú bác, anh em không ngừng gởi thơ xin tiền, viện đủ lý do. Đến cả đau đầu cũng gởi thơ nhắc đừng quên gởi thuốc Tylenol. Mình có viết thư giải thích cái nhà là của ngân hàng. Nhưng nào ai tin, cứ cho mình là kẻ khiêm tốn, không muốn khoe khoang. Sau cùng anh kỹ sư Trung phán một câu :“Người tỵ nạn của chúng mình mang kiếp lưu đày, nay trở thành kiếp trâu cày”! Qua câu chuyện của kỹ sư Trung kể đã tác động tình cảm của Phong không ít. Chàng có bà mẹ già đang sống lam lũ với người em trai tại một thị trấn nghèo nàn nửa chợ nửa quê. Hơn một năm nay Phong chưa dám nghĩ đến chuyện gởi tiền về cho mẹ bởi chàng còn gặp nhiều khó khăn. Nằm ở đảo gần hai năm, nhờ cái giấy chứng nhận cô nhi quả phụ của mẹ chàng gởi qua nên Phong được Cao ủy tỵ nạn cho đi Hoa kỳ. Cùng chuyến vượt biển muộn màng với chàng, đa phần bị cưỡng bức quay về Việt Nam vì thiếu giấy tờ chứng minh. Cha Phong hy sinh ngoài mặt trận lúc thằng em còn trong bụng mẹ.. Người đã sống khép mình, tảo tần nuôi hai đứa con trưởng thành. Trước hoàn cảnh bi đát của gia đình, Phong đã liều chết trốn vào thuyền vượt biển. May mà thoát được, nếu còn ở lại Việt Nam, diện của gia đình Phong chỉ còn chết gí tại hợp tác xã hoặc ở các công trường, không cách nào ngẩng cao đầu được.. Phong đã ghi tên vào trường Mission College và xin được cái job Work Study. Hy vọng đơn xin trợ cấp được chấp nhận, bấy giờ chàng sẽ dành chút đỉnh tiền gởi về cho mẹ và em. Hàng ngày, Phong bỏ xong route báo về nhà nghỉ được một giờ rồi phóng xe tới trường. Sau giờ học, chàng ở lại trường thêm một giờ nữa để làm công việc của một trợ giáo hoặc vào thư viện. Báo ngày Chủ Nhật có rất nhiều phụ bản quảng cáo, carrier cần nhiều thời gian để xếp báo, ngoài ra tờ báo cuối tuần rất nặng, không thể ngồi trong xe quăng báo qua cửa xe như báo ngày thường. Vì thế vào ngày này nhà kho mở cửa trước 12 giờ khuya cho mọi người đến nhận báo . Ngày Tết Nguyên Đán đã gần kề, Phong nhớ đến mẹ và em ở quê nhà. Thằng Thủy hiện là công nhân trồng cây lâm trường, tiền lương vừa đủ nuôi thân. Còn mẹ chàng, đặt tủ thuốc bên lề đường thị trấn, bán từng điếu Hoa Mai, Điện Biên. Họa hoằn mới có người hỏi mua vài điếu thuốc ngoại nhập. Phải nhìn trước nhìn sau tránh bọn thuế vụ luôn luôn rình rập. Phong vừa nhận được tiền trợ cấp. Sau khi trừ tiền sách cũng còn dư chút ít, nên chàng quyết định gởi về cho Mẹ 200 Mỹ kim để tiêu Tết. Mẹ Phong nhận được tiền từ Mỹ gởi về, mừøng lắm. Bà sai Thủy viết thư tin cho anh rõ : “Nhờ tiền anh gởi về mà mẹ có được bộ bà ba mới bằng vải ka-tê, em sắm bộ sơ mi quần tây để ăn Tết, cũng nở mày nở mặt với bà con láng giềng.” Từ đó, thành thông lệ, đến ngày Tết, ngày chạp , và đặc biệt là ngày giỗ cha, Phong gởi tiền về cho mẹ mua sắm rộng rãi.. Một hôm chàng nhận được thư của Mẹ gởi: Phong, con yêu quý của mẹ, Như con biết đó thằng Thủy em con làm công nhân lâm trường cực khổ lắm, dãi nắng dầm mưa mà tiền lương không đủ tiêu. Nay nhân dịp có người bạn của nó là thằng Hanh cùng với mấy người có thế lực trong huyện mở một công ty sản xuất bia có tiêu chuẩn quốc tế. Người ta cho em con được hùn vốn mà gia đình ta nghèo quá. Em con thì muốn thoát ra cảnh khổ của đời công nhân, nên mẹ biên thư này mong con thương mẹ, thương em gởi về cho em con mượn 10.000 đô la. Sau này mẹ sẽ nhờ vào số tiền lời của công ty chia hàng tháng mà an hưởng tuổi già. Mẹ biết hiện giờ con còn phải bận rộn việc học hành, nhưng đằng nào con cũng có khả năng kiếm tiền hơn mẹ và em con. Con chớ nên chậm trễ để cơ hội qua đi. Mẹ mong tin con từng ngày ở quê nhà. Mẹ của con. Bức thư của mẹ làm Phong nhức đầu mấy ngày. Đào tiền đâu ra mười ngàn đô. Cái route báo 200 tờ, tiền trợ cấp, tiền làm thêm trong trường cộng lại chỉ hơn ngàn rưỡi bạc. Trả tiền thuê phòng, tiền bảo hiểm xe, tiền sửa xe, tiền đổ xăng và tiền ăn...chẳng có dư bao nhiêu. Mười ngàn đô gởi về trọn gói quả thực vượt ngoài tầm tay đối với chàng. Phong thương mẹ thương em muốn cho gia đình thoát ra cảnh nghèo túng. Đây là cơ hội cho em mình kinh doanh, có công việc làm tương đối nhàn hạ lại có tiền cung cấp cho mẹ hàng tháng. Phong nghĩ tới ông thầy cũ, đến anh kỹ sư có hai nhà mà còn đi bỏ báo kiếm thêm tiền gởi về cho gia đình. Đó là một tấm gương tốt. Trong thư mẹ dặn chớ nên chậm trễ để lỡ cơ hội. Vì vậy, chàng quyết định tận dụng Credit card, mượn ông thầy cũ, vợ chồng anh kỹ sư Trung mỗi người 2000 đô cộng thêm tiền dành dụm bao lâu nay là đủ số tiền theo yêu cầu của mẹ. Chàng sẽ xin thêm một route báo nữa để có tiền trả nợ dần. Phong tự an ủi: “Mình bỏ bớt giờ nghỉ, dậy sớm hơn và về trễ hơn. Người ta bảo: “Giúp ngặt không ai giúp nghèo.” Tiền gởi về chia làm 3 đợt được thông suốt. Mẹ chàng viết thư bảo rằng: “ Trong đời mẹ chưa bao giờ thấy được số tiền lớn như thế. Mẹ đã chảy nước mắt khi ôm túi tiền một trăm bốn mươi triệu bạc Việt Nam vừa mới được đổi ra.” Ngày nhận được thư mẹ cũng là ngày ông quản lý cho thêm route báo 100 tờ. Như vậy là Phong phải bỏ 300 tờ báo cho khách hàng mỗi ngày. Tuy khổ cực nhiều nhưng Phong rất thỏa mãn mỗi khi nghĩ đến mẹ và thằng em có công việc làm vững chắc, có lợi tức thu vào hàng tháng để mẹ chàng khỏi phải phơi nắng ngồi bán từng điếu thuốc hút. Hôm nay thứ Bảy, bỏ xong báo đến tám giờ sáng, Phong ghé tiệm cà-phê mua ổ bánh mỳ xa-xíu, ly cà-phê đá rồi lái xe thẳng đến nhà kho để nhận hàng quảng cáo, loại thuốc gội đầu của hãng sản suất H.E. Phải bỏ hàng vào loại bao đặc biệt của hãng cung cấp kèm theo mấy tờ coupons giảm giá. Phong đến trễ hơn mọi người nên phải đậu xe tận ngoài xa. Bãi đậu xe nơi đây vắng vẻ sát bờ suối có tàn cây che mát. Chàng ngồi trong xe gặm ổ bánh mỳ và ly cà phê đá. Bất chợt, Phong trông thấy chiếc xe màu trắng đậu dãy ngoài cùng đang lắc lư, nhún nhẩy như người lên đồng. Chàng nghi ngờ, biết đâu có kẻ bị bắt cóc vứt vào thùng xe, giờ đang vùng vẫy kêu cứu. Phong hấp tấp mở cửa xe phóng người đến chiếc xe đang đánh nhịp. Nhìn qua cửa kiếng, Chúa ôi, Phong đưa tay bịt miệng, quay đầu chạy một mạch về lại xe mình đóng sầm cửa lại. Một cảnh tượng đập vào mắt khiến Phong có cảm tưởng mình vừa bị lừa. Cặp nam nữ trần truồng đang hì hục làm tình trên băng ghế sau. Phong xấu hổ ngồi đờ đẫn trong xe . Phần ổ bánh mỳ còn lại chàng vứt vào bao giấy, chỉ uống cạn ly cà-phê. Độ năm phút sau, cánh cửa sau xe màu trắng bật ra, cô vợ trẻ vừa bước xuống xe vừa cài hột nút áo cuối cùng, nhoẻn miệng cười rất tươi với người bên trong rồi thoăn thoắt đi về hướng nhà kho. Phong vẫn ngồi yên chờ đợi xem người còn lại là ai. Khi cô bé đi đã khá xa, người chủ chiếc xe xuất hiện, không ngoài sự dự đoán của Phong, đó là chàng thanh niên Mễ có ngón đàn guitare gợi cảm. Trong nhà kho không khí nhộn nhịp. Những chiếc thùng các tông rỗng đựng mẫu shampoo quảng cáo vất tứ tung. Cô vợ trẻ đang giúp chồng bỏ hàng vào túi nhựa. Bất chợt, người chồng phát hiện áo cô vợ gài lệch khuy khiến tà áo so le, ông nói nhỏ vào tai vợ, cả hai cùng cười. Cô nàng ngồi thụp xuống bên dưới bàn để gài lại nút áo, khi đứng lên, nàng bẽn lẽn véo yêu vào cánh tay chồng. Ông Mễ già nhìn cô vợ trẻ với ánh mắt chan chứa tình yêu và tràn ngập niềm tin. Đột nhiên, tâm hồn Phong chùng xuống. Chàng thương hại người chồng đã dồn tình yêu không đúng chỗ. Phong thấy áy náy trong lòng vì đã không làm được điều mình muốn làm cho người chồng đang bị vợ cắm sừng. Ông ta quên rằng khi con ngựa đã rõ đường đi lối về thì ngựa đâu cần đến dây cương. Khi tình yêu đến với người đàn bà sẽ không còn sức mạnh nào ràng buộc được họ ngoài sức quyến rũ của người tình. Khi phát giác ra điều này, ông già sẽ đau khổ biết chừng nào. Phong đã lấy xong bằng AS sau ba năm học miệt mài tại Misson College và đã ghi tên tại Đại học SJSU theo ngành kỹ sư điện. Trong ba tháng hè, Phong dự tính dành ba tuần lễ về Việt Nam thăm gia đình. Nhân thể xem công việc hùn hạp làm ăn của Thủy như thế nào. Chàng đã nhờ hai người bạn học bỏ hộ 2 route báo trong thời gian vắng mặt. Muốn tạo sự ngạc nhiên cho mọi người, Phong không báo tin cho gia đình biết trước. Từ phi trường Tân Sơn Nhất, Phong lên taxi đến thẳng bến xe đò liên tỉnh. Trên đường về quê, chàng nghĩ đến giờ gặp mẹ gặp em khiến lòng chàng nôn nao. Chàng sẽ kể chuyện về quê người, về những tháng năm lo âu trên đảo và những hiểm nguy của đoạn đường vượt biển. Trước khi xe vào thị trấn, Phong xuống xe ghé thăm người cậu ruột đã mười năm chưa gặp mặt. Nhà cậu ở gần quốc lộ nên chàng tìm đến chẳng khó khăn gì. Gặp Phong, cậu ôm chàng rưng rưng nước mắt. Cậu nghẹn ngào nhắc lại kỷ niệm ngày xưa mà cậu và cha chàng đã cùng nhau chiến đấu chung một chiến hào.. Ông cậu bảo Phong: - Mẹ con thật có phước, nhờ tiền con gởi về mà đời sống khấm khá hẳn lên. Ngôi nhà cũ được sửa sang lại. Thằng Thủy em con sắm được chiếc xe Dream đời mới. Chị Ba bây giờ trông có da có thịt khác hẳn với những ngày trước kia. Phong khiêm nhường : - Tiền con gởi về chẳng là bao nhưng nhờ em Thủy có kế hoạch làm ăn nên mới mau khấm khá như thế . - Thằng Thủy làm ăn gì ? Bà mợ xen vào : - Em nó hùn vốn trong công ty sản xuất bia mợ à. Phong phấn chấn trả lời. Bà mợ trố mắt nhìn Phong, lắc đầu : - Công ty Bia ôm thì có! Phong không hiểu ý của bà mợ, nhưng cách trả lời của mợ có vẻ xẵng giọng và ánh mắt ái ngại của cậu liếc nhìn Phong khiến chàng cảm thấy nỗi nghi ngại bắt đầu nhen nhúm trong lòng. - Thế, thế... Phong định hỏi, thế có nghĩa là thế nào hở mợ , nhưng cổ họng chàng nghẹn lại. Rồi chàng tự nhủ : “ Không thể nào, không thể nào”. Phong đứng lên, lấy ra 100 Mỹ kim đặt lên bàn: - Thưa cậu mợ, đây là chút quà mọn con kính biếu cậu mợ để bồi dưỡng, giờ con xin được kiếu từ. Phong chạy ra đường lộ gọi xe thồ cấp tốc về nhà mẹ. Căn nhà cũ khá sáng sủa, trông lạ hẳn. Chàng đẩy cửa bước vào. Trên chiếc chiếu hoa trải giữa sàn xi-măng, mẹ chàng cùng ba người đàn bà ngồi quanh một cái đĩa đựng những con bài tứ sắc. Mẹ chàng trực nhìn lên thấy con trai, kêu lên : - Phong, con về hồi nào, sao không tin cho mẹ biết trước. Miệng nói nhưng mắt mẹ vẫn nhìn đăm đăm vào những con bài cầm trên tay, bà tiếp: - Bà Tám có không, tôi có đôi đấy - Con vào thay đồ tắm rửa, mẹ đánh xong ván bài nầy rồi tính. - Vào căn phòng của Thủy, Phong ngồi thừ người chán nản. Chẳng lẽ mẹ mê những con bài tứ sắc hơn con mình từ xa về sao ? Khi ngồi trên máy bay, Phong tưởng tượng mẹ chàng sẽ để rơi những giọt nước mắt vui mừng khi thấy con trai từ Mỹ về thăm sau bao năm trời xa cách. Chàng thay bộ áo quần sạch, nhét bộ đồ bẩn vào chiếc xách rồi vội vàng đi ra. Mẹ chàng hỏi: - Con đi đâu đó Phong, áo quần dơ để mẹ đem ra tiệm giặt ủi, nhớ về ăn cơm nghe con. Mẹ chàng vừa dặn dò Phong vừa xoa đống bài trên chiếu. Phong cúi đầu chào mẹ và mọi người rồi gọi xe ôm chở chàng đếân nhà của Hanh ở xóm trên . Hắn là bạn thân của Thủy, người đã rủ em chàng góp vốn đầu tư vào công ty sản xuất bia. Căn nhà gạch ngày xưa nay không có gì thay đổi. Cha mẹ của Hanh trước 1975 thuộc hạng giàu có nhất nhì thị trấn. Ông có đại bài gạo và tiệm buôn xe gắn máy. Khi chính quyền “cách mạng” mở chiến dịch đánh tư sản mại bản, tài sản của ông hoàn toàn mất sạch. Mấy năm sau, ông bà buồn khổ lần lượt từ bỏ cõi trần. Hanh đón tiếp khá vui vẻ. Phong nóng lòng hỏi ngay : - Hanh à, cái công ty sản xuất bia của em đến nay như thế nào rồi? - Bia bọt gì đâu anh, làm sao cạnh tranh nổi với người ngoại quốc đến đây đầu tư. Em có bao giờ dám nghĩ đến cái chuyện phiêu lưu đó đâu. Mình không có thế thần lại chẳng tài cán. Thôi thì sống an phận, nhận mấy trăm thước vuông ruộng, ôm cái vườn nhà làm thêm chút rau quả, trước cho cả nhà ăn, dư đem ra chợ bán kiếm tiền mua mắm. Thằng Thủy em anh có phước có phần, được Việt kiều ở Mỹ chu cấp tiền đô đều đều, sáng cà phê, chiều bia rượu. - Nghe Hanh nói đến đây, Phong rùng mình hiểu hết ngọn ngành. Chàng lấy tiền cho đứa con Hanh rồi cáo từ. Trời nhá nhem tối, cảnh vật quanh chàng nhập nhòe dưới ánh mắt không còn thần lực. Phong bước đi lảo đảo như người mắc bịnh quáng gà. Tâm trạng hụt hẫng cùng nỗi uất ức tràn ngập trong lòng, bất giác Phong vẫy chiếc xe ôm bảo chở chàng đến quán bia ôm. Anh xe ôm liến thoắng : - Ở cái thị trấn nầy có nhiều quán cà-phê ôm, bia ôm lắm. Anh muốn đến quán Trăng Vàng nổi tiếng có nhiều em thơm mà chiều khách không chê vào đâu được. Hay đến quán Mộng Huyền có mấy em chân dài từ Hà Nội vào đây phục vụ? Phong bực mình trước cái lối quảng cáo lố lăng của anh xe ôm , chàng xẵng giọng: - Muốn chở đi đâu tùy anh. Anh xe ôm chạy quanh co trên con đường đất rộng nhưng cũng khá nhiều ổ gà. Quán nằm trên địa điểm thơ mộng thuộc vùng vườn cây ăn trái. Nơi đây, ngày còn chiến tranh, du kích về [ .. ] thường đêm. Phong kéo chiếc mũ lưỡi trai hơi sụp xuống che một phần khuôn mặt. Chàng vào quán tìm chiếc bàn ở một góc tối mà có thể quan sát hầu khắp. Chàng kêu một chai bia 33. Các cô gái xăng xái đến ngồi chung bàn phục vụ nhưng chàng xin lỗi từ chối. Một khắc sau, một tốp thanh niên bốn tên ồn ào vào quán. Phong nhận ra ngay thằng Thủy em mình dẫn đầu đám ăn theo. Người tiếp viên đẹp nhất ở đây vồn vã ôm Thủy hôn rất sống sượng rồi dìu hắn ngồi vào chiếc ghế xa-lông. Có lẽ đây là vị thế tốt nhất của hắn đã chọn từ trước. - Uống gì đây, thưa quý vị? bà chủ quán hỏi. - Xin mời thủ trưởng lên tiếng, một đàn em nhìn Thủy chờ đợi. - Cho tụi bay kêu tự do, Thủy vung tay. - Thủ trưởng có tiền đô từ Mỹ chi viện đều đều lại vừa trúng cá độ trận banh quốc tế đấy. Cô tiếp viên, phần trên mặc chiếc yếm để hở tấm lưng trần, phần dưới là cái váy cũn cỡn, khoe cặp đùi và đôi chân nõn nà. Cô bưng một khay bia ngoại nhập hiệu Heineken đặt trên bàn Thủy ngồi. Ả khui bia rót vào ly rồi nâng lên kề sát miệng khách như “ái phi” phục vụ “quân vương”. Hắn uống một hơi hết nửa ly, phần còn lại cô tiếp viên uống sạch và lau miệng hắn bằng chính môi nàng. Để khen thưởng cái cử chỉ đẹp đó, Thủy cầm tờ bạc 50 chục ngàn nhét vào váy của cô bé. Sẵn đà, hắn thọc tay sâu vào bên dưới. Cô gái trân mình gục đầu vào vai hắn... Phong vô cùng đau khổ. Chàng không ngờ em trai của mình lại lâm vào cảnh hư đốn đến như thế. Muốn đứng lên giáng vào mặt Thủy mấy bạt tai cảnh cáo, nhưng chàng cố trấn tĩnh, lặïng lẽ đến quầy trả tiền rồi lên xe thồ chạy thẳng ra thị xã. Buổi sáng, khi trời còn mờ sương, trên con đường hẹp, Phong lội bộ băng qua cánh đồng hướng về khu đồi nghĩa địa . Chàng đến trước mộ cha, đặt một bình hoa và đốt nắm hương cắm vào chân bia. Nhìn ngôi mộ xây đã trải qua hai mươi lăm năm mưa nắng xói mòn, lòng Phong quặn thắt. Hình ảnh người cha kính yêu hiện về mờ nhạt trong trí nhớ của chàng thuở vừa lên năm. Nước mắt Phong tuôn tràn, nước mắt của khổ đau và thất vọng. Chàng khấn giữa thinh không, dù rất nhỏ nhưng tiếng vọng vang xa, lung linh cả núi đồi: “ Xin Ba tha thứ cho con. Trước hoàn cảnh này con hoàn toàn bất lực. Một xã hội mà con người có thể nhẫn tâm lừa lọc đến cả người thân yêu của mình, có thể vui hưởng trên cả mồ hôi, máu và nước mắt của ruột thịt mình. Con xin từ biệt Ba, ngày mai này con lên đường trở lại Hoa Kỳ, một đất nước xa lạ nhưng đã cho con nhiều cơ hội thành một con người lương thiện./ HƯƠNG BỒ KẾT Trên chuyến máy bay đến Seattle, Tôn đã ngồi vào chiếc ghế của mình. Hành khách tiếp tục di chuyển trên hành lang máy bay. Từ xa một thiếu nữ tay xách túi nhựa, tay kéo chiếc va ly nhỏ đang nhìn daó dác tìm số ghế. Trông khuôn mặt và mái tóc của cô gái, Tôn chợt thấy lòng bồi hồi, xao xuyến. Bóng dáng cô gái phảng phất hình ảnh một người mà ông cảm thấy rất thân quen. Thiếu nữ dừng lại trước dãy ghế Tôn đang ngồi. Nhìn kỹ số ghế một lần nữa rồi nàng đặt túi xách lên chiếc ghế trống mỉm cười xã giao với Tôn: - Chào bác. Xin lỗi, bác là người Việt Nam ? - Vâng, chào cô. Tôn trả lời rồi đứng lên giúp nàng bỏ va li vào khoang hành lý mà cô bé đang cố gắng nâng lên vượt quá tầm cao của nàng. Mái tóc dài đen tuyền và láng mướt, thoang thoảng hương thơm trái bồ kết gội đầu, một loại hương đã ngấm sâu trong tiềm thức của Tôn. “Cô bé nầy chắc từ Việt Nam mới sang”, Tôn thầm nghĩ, rồi cất tiếng hỏi : - Xin lỗi, cô từ Việt Nam mới qua Mỹ ? - Thưa bác không ạ. Với giọng Huế rất ngọt ngào, nàng từ tốn tiếp: - Cháu qua Mỹ đã 8 năm rồi. Sống ở cái xứ khoa học công nghiệp hóa chất, mọi sản phẩm đều bào chế sẵn mà cô gái nầy còn giữ được thói quen dùng nước bồ kết, lá chanh gội đầu, khiến Tôn tò mò : - Tám năm sống ở Mỹ mà cô vẫn giữ được thói quen gội đầu bằng đặc sản quê hương. Người Việt như thế thật hiếm thấy. - Bác ơi, đây là ý muốn của Me cháu. Cô bé đưa hai tay tóm gọn mớ tóc dài lòa xòa hai bên má ra sau lưng rồi đon đả tiếp : - Từ lúc cháu còn bé cho đến giờ đây đã trưởng thành mà Me cháu cứ bắt cháu gội đầu bằng nước chùm kết. Me cháu bảo gội đầu bằng loại trái bồ kết với lá chanh vừa sạch gầu lại không làm hại da đầu, giữ tóc mềm, óng mượt và không rụng tóc. Cứ mỗi cuối tuần, me cháu nấu sẵn một nồi nước bồ kết để phần cho cháu. Mái tóc dài nhiều lúc làm việc nó vướng víu, gây phiền toái lắm. Hễ mỗi lần cháu đòi cắt tóc ngắn thì Me cháu buồn bã, bỏ ăn. Me lại nhắc đến “điệp khúc” mà trên hai chục năm qua cháu thuộc nằm lòng : “ Ngày xưa Ba con thường khen me, mái tóc dài óng ả của em và hương bồ kết nó quyến rũ anh đến đê mê ngây ngất. Anh muốn con gái của chúng mình sau nầy cũng có mái tóc dài như mẹ nó ”. Cô gái nói một hơi, không e dè mà lại chân tình khiến Tôn có cảm tình ngay. Riêng “cái điệp khúc của me” mà cô nhắc tới khiến cho Tôn ngạc nhiên. Nó trùng hợp với ý tưởng mà ngày xưa chàng hay tâm sự với người yêu. Ngồi ngay dậy, chàng nhìn vào mắt cô bé, hỏi: - Xin lỗi, Me cô bây giờ ở đâu ? - Me cháu cùng ở thành phố Seattle với cháu. Cô gái lấy tấm chăn đắp lên mình rồi nhìn Tôn, thân thiện hỏi : - Thưa, bác qua Mỹ đã lâu chưa ? - Tôi vượt biên qua đây đã 16 năm rồi. Thế quý danh của cô ? - Cháu tên Nguyễn Thị Trọng Nhi.. - Ba cô hiện đang làm gì ? - Ba cháu tử trận lúc cháu còn trong bụng mẹ. - - Cô qua đây theo chương trình nào vậy ? - Đoàn tụ. Cậu cháu bảo lãnh bà ngoại và hai mẹ con cháu. - Thế, ông cậu cô tên gì ? - Hà Thúc Tâm . Tôn sửng sốt, chồm người về phía cô bé hỏi: - Cô còn người cậu nào nữa không? - Dạ còn ông cậu sinh đôi. - Tên gì ? Tôn nôn nao gần như mất điềm tĩnh. - Hà Thúc Trí . Trống ngực Tôn đánh liên hồi như ngày xưa chờ nghe kết quả của mỗi kỳ thi. Ông ngã lưng vào ghế dựa cố dấu những cơn thở gấp của mình. Một chặp lâu, lấy lại bình tĩnh, Tôn hồi hộp hỏi : - Có phải tên me cháu là Hà Thị Việt Anh ? Bây giờ, đến phiên cô gái ngạc nhiên thốt lên : - Sao Bác biết tên me cháu? Tôn chưa kịp trả lời thì máy bay bắt đầu hạ cánh. Khí áp làm cho hai tai chàng lùng bùng không còn nghe được gì cả. Khi rời máy bay, Tôn kéo giúp hành lý cho cô gái. Ông cho Trọng Nhi biết hai người cậu của cô là bạn thân của mình lúc còn ở quê nhà. Tôn trao mảnh giấy có ghi số điện thoại và kèm theo tên của mình, căn dặn: - Cháu về nói với cậu Tâm và Trí gọi phôn cho Bác. Tôn cũng không quên xin nàng số điên thoại. * * * Vợ chồng người em đón Tôn ở phi trường. Ngồi trên xe, hồi ức về quá khứ bỗng hiện ra rõ mồn một trong trí nhớ của ông dù thời gian đã cách xa trên phần tư thế kỷ : ...Sau giờ tan học, Tôn vội vã đạp xe thẳng tới nhà của Tâm và Trí, hai cậu học trò nhỏ sinh đôi cùng học lớp đệ Ngũ mà Tôn đã nhận dạy kèm từ mấy hôm trước. Căn nhà hai tầng, khang trang nằm sâu trên con đường hẻm rộng chạy dọc theo bờ thành nhà thờ “Ba Chuông”. Từ ngày nhận việc, bà Thùy, mẹ của hai em cho phép Tôn đi thẳng lên lầu, nơi có phòng riêng dành cho con của bà học tập mỗi ngày. Căn phòng có đầy đủ bàn ghế học trò, bảng đen, quạt trần như lớp học thu nhỏ. Một cửa lớn mở ra sân thượng chưng nhiều chậu kiểng. Những cái chậu bằng sứ tráng men đủ màu sắc trông rất cổ kính. Đa phần là loại cây cảnh bonsai được cắt tỉa rất công phu.. Thế cây nào cũng hoàn hảo, phối hợp giữa gốc rễ, cành lá đạt đến trình độ nghệ thuật cao. Nơi đây là cây tùng gốc to, đầy những u nần như vị sư già ngồi thiền dưới tàn cây uốn cong rất mỹ thuật. Chi nhánh gốc rễ của nó đều toát lên tính thẳng ngay, thâm trầm, sâu sắc mà phóng khoáng. Kia là cặp sứ, rễ mọc nổi vồng như loài rắn quấn chặt với nhau trong cái chậu nước men màu xanh nhạt. Và gốùc bồ đề già cỗi trên một trăm năm tưởng chừng vòm cây sẽ phủ bóng cả một vùng rộng lớn nay đành chịu khép mình trong cái thể tích nhỏ nhoi. Đặc biệt nhất là gốc mai, da cây lão thọ nổi vẩy sần sùi chứng tỏ tuổi của nó cũng không kém gì gốc bồ đề kia lại thêm hình dáng rất gợi cảm. Theo quý cụ sành chơi bonsai thì cây mai ở thế hoành, tượng trưng cho sự mềm mại, uyển chuyển hào hoa của người nghệ sĩ. Lại thêm bộ rễ thưa xoải ra vững vàng tăng phần đường bệ. Mọi lần bấm chuông, Tôn được bà Thùy mở cửa. Hôm nay, người mở cửa là một thiếu nữ. Với giọng Huế ngọt ngào , cô cất tiếng hỏi : - Thưa ông tìm ai ? - Tôi đến dạy kèm mấy cậu em ở nhà, Tôn trả lời. - Ồ, thế à , xin lỗi, chào thầy. - Không giám, chào cô, Tôn chào trả lễ rồi đi thẳng lên tầng lầu. Trong mười phút nghỉ giữa buổi học, chàng được hai cậïu học trò cho biết cô gái mở cửa lúc nãy tên Việt Anh, là người chị lớn nhất trong nhà. Chị đi thăm bố ở Cần Thơ mới về hôm qua. Ông bố hiện là Chủ tịch công ty các nhà máy xay gạo nằm rải rác tại các tỉnh miền Tây. Hết giờ dạy,Tôn ra về. Việt Anh mở cửa tiễn chàng đến bậc thềm. Suối tóc đen tuyền phủ kín bờ vai thon nhỏ chảy dài đến tận thắt lưng. Mùi hương của trái bồ kết và lá chanh thoảng bay từ mái tóc mới gội của nàng khiến Tôn nhớ đến mẹ trong những tháng năm còn thơ ấu. Chàng yêu thích và trân quý mùi hương đó, mùi của đồng quê dân giả. Mái tóc mẹ rậm và dài đến quá đầu gối. Mỗi lần gội đầu xong, mẹ phải ngồi trên chiếc ghế đẩu cao hong tóc ngoài hiên nhà. Những lúc ấy Tôn lại sà vào lòng mẹ để được ngửi mùi hương thơm nồng của nước bồ kết với lá chanh. Hình ảnh mái tóc mẹ như quấn chặt tuổi thơ của Tôn cho đến ngày khôn lớn. Cái mượt mà và hương thơm bồ kết của mái tóc Việt Anh như quyến rũ, như gợi nhớ những kỷ niệm ngày xưa. Hình ảnh của Mẹ chợt sáng bừng lên trong tâm tưởng chàng mà bao lâu nay đã lắng đọng trong tiềm thức. Giờ đây, niềm cô đơn trong Tôn như đang chơi vơi giữa biển khơi cần nơi bám víu. Mái tóc và mùi hương “phù thủy” của Việt Anh nó cuốn hút chàng, mê hoặc chàng kết tụ thành “Tiếng sét ái tình!” Nét duyên dáng của Việt Anh phần lớn nhờ mái tóc đen tuyền che một phần khuôn mặt trông rất “liêu trai”. Và đôi má trắng hồng thêm cặp mắt đen tròn loáng thoáng chút gì ngây thơ. Trong giờ dạy, Tôn nghe tiếng đàn piano vọng lên từ phòng khách dưới lầu. Tiếng đàn khá điêu luyện của Việt Anh đủ biết cô con gái cưng của ông bà Thùy đã được tập luyện dương cầm từ lúc còn bé thơ. Thời gian sau nầy, khi hết giờ dạy, Tôn thường lưu lại chơi đàn với hai cậu học trò. Tuy nhỏ tuổi nhưng các cậu ấy chơi guitar khá thạo. Một hôm Tâm và Trí yêu cầu Tôn hát. Sẵn với tâm trạng nhớ nhà , chàng vừa đàn vừa hát bản nhạc “ Bông Hồng Cài Áo”. Thơ của Nhất Hạnh, Phạm Thế Mỹ phổ nhạc. Chàng để hết tâm hồn vào lời ca tiếng nhạc, quên tất cả những gì chung quanh. Chỉ còn lại là hình ảnh của Mẹ ôm chàng vào lòng trước khi chàng xa mẹ. Đến phần điệp khúc: “...Mẹ, mẹ là dòng suối dịu hiền, Mẹ, mẹ là bài hát thần tiên, là bóng mát trên cao, là mắt sáng trăng sao, là ánh đuốc trong đêm khi lạc lối...”. Bỗng nước mắt Tôn ứa ra. Chàng đã khóc như ngày nào chàng khóc trong vòng tay Mẹ. Hương bồ kết trên tóc Mẹ phủ lên mặt chàng đã lưu mãi trong ký ức chàng suốt quãng đời xa xứ. Bài ca vừa dứt, có tiếng vỗ tay lẻ loi phía sau lưng Tôn.. Quay nhìn, chàng thấy Việt Anh đứng dựa vào tấm bảng đen, nàng khẽ nói: -“ Anh hát xúc động quá”. Tâm, Trí cũng đồng tình : - “Thầy có giọng hát rất truyền cảm”. Tôn cảm ơn Việt Anh và hai em , rồi ra về. Những ngày tháng sau đó, tình cảm của mọi người trong gia đình bà Thùy đối với Tôn cởi mở và gần gũi nhiều hơn. Vào ngày cuối tuần, thầy trò không còn vui chơi riêng rẽ trên phòng học nữa mà mang đàn xuống phòng khách cùng với Việt Anh đệm piano cho mọi người thay nhau hát solo. Một hôm Việt Anh hát tặng Tôn bài hát “Tóc Mây Sợi Vắn Sợi Dài” của Phạm Duy : “Thuở ấy em vừa thôi kẹp tóc, thuở ấy anh vừa thôi học xong. Yêu anh yêu anh em làm thơ, yêu em yêu em anh soạn nhạc. Thuở ấy thơ còn non mùi sữa, thuở ấy tiếng đàn nghe vụng quá, cho nên không khoe nhau bài thơ, cho nên không khoe nhau bài nhạc.... Thuở đó ta thành đôi tình nhân, Từ đó ta cùng vui tình xuân, yêu nhau yêu nhau theo thời gian, xa nhau xa nhau theo mộng tàn...” Tôn đứng dậy bắt tay cảm ơn nàng. Hơi ấm chuyền qua đôi bàn tay nhạy cảm khiến họ cảm nhận được niềm rung động con tim. Hai người nhìn nhau với ánh mắt nồng nàn và hai tâm hồn giao cảm. Buổi dạy hôm sau, Tôn bắt gặp một tập vở bìa cứng của Việt Anh bỏ quên trên bàn học của Tâm và Trí. Tò mò, chàng mở ra xem. Trong đó, gồm những bài thơ sưu tầm của những tác giả đã nổi tiếng xưa nay. Một số bài khác do chủ nhân cuốn tập sáng tác. Riêng bài cuối cùng Việt Anh đề: “Riêng tặng một người tên T...”nhiều ẩn ý và già dặn, chứng tỏ cô bé đọc nhiều thơ và khá lãng mạn : “Em gặp anh giữa Hạ vàng xế nắng, Chợt hồn mình mát rượi ngỡ chiều Xuân Nghe tim em những xao xuyến thì thầm... Dù ánh mắt anh vẫn người xa lạ. Giữa vườn hoang em chỉ là cánh lá Cánh lá cô đơn, bé nhỏ úa nhàu Mong trời mưa cho xanh lá tươi màu Trên sa mạc tình cát khô bỏng lửa...” Sau giờ dạy, Tôn viết vào tập thơ “Riêng tặng VA” bài thơ : Dáng Em Mượt mà từng sợi tóc mây Ai nâng cung bậc so dây tơ chùng Ai buồn cho mắt mông lung Ai vui hàng ngọc sáng trưng nụ cười? Ngọc ngà mười búp măng tay Lướt trên phím nhạc ru say điệu buồn Tóc vờn nắng ráng chiều vương Cho mây về ngụ tận phương trời nào Ngẩn ngơ bên cánh hoa đào Môi Em hồng nụ, tuổi ngào ngạt hương Quê nhà năm tháng mù sương Tương tư về đọng sân trường - dáng em... Ngày hôm sau, khi mở cửa, Việt Anh trao cho Tôn một mảnh giấy, nàng viết : “Cảm ơn anh đã tặng cho VA bài thơ rất dễ thương. Thứ hai tuần tới em bắt đầu vào học lớp luyện thi tú tài toán tại trường Lê Bảo Tịnh.. Trước khi đến dạy Tâm Trí, anh nhớ chờ em trước cổng trường để cùng về nhà luôn thể, VA” Từ hôm đó, chàng và nàng thường bước song đôi trên quãng đường Trương Minh Ký. Đôi khi Tôn chở nàng trên xe đạp. Tình cảm của hai người mỗi ngày mỗi đậm đà, khắng khít. Rồi một hôm... Trời Tháng Tư, Sài gòn có những cơn mưa bất chợt. Việt Anh và Tôn bước song đôi trên lề đường về nhà. Bỗng đám mây đen xuất hiện bất ngờ,Việt Anh thúc Tôn chở nàng về kẻo mưa kéo tới. Ngồi lên ba-ga xe, nàng vòng tay ôm bụng Tôn. Chợt, tiếng còi xe hơi vang lên phía sau, rồi tiếng thắng của xe rít lên phía trước. Chiếc xe nhà màu đen vừa tấp vào lề, một người đàn ông trang phục vét-tông ca-vát, bệ vệ mở cửa bước ra. Việt Anh vội vã rời khỏi xe đạp tiến về phía người đàn ông kêu lên mừng rỡ : - Ba ! Ông ta không trả lời, đến trước Việt Anh dang tay tát vào má nàng, đưa ánh mắt khinh khi nhìn Tôn rồi đẩy vai con gái hối thúc: - Lên xe về ngay. Nàng ôm mặt khóc, lặng lẽ bước lên phía sau xe, ông đóng sầm cửa lại.. Chiếc xe hơi đã đi khá xa mà Tôn vẫn còn đứng tại chỗ như “trời trồng”. Lồng ngực chàng như có ai siết chặt bằng sợi dây thừng. Trái tim Tôn nhói đau và toàn thân như tê dại. Dựng xe vào lề đường, chàng đến dựa vào gốc cây cho qua cơn choáng váng. Lần đầu tiên chàng nhìn thấy bố của Việt Anh, một thương gia đầy thế lực tại miền Tây. Ánh mắt của ông thương gia giàu có nhìn Tôn vừa giận dữ, vừa khinh miệt cùng cái tát thô bạo của ông lên má con gái của mình đã khiến Tôn không còn kính phục. Vì thế, chàng quyết định bỏ dạy kèm cho hai cậu học trò mặc dầu chàng yêu Việt Anh và rất mến hai đứa em nàng. Tôn cũng kính trọng bà Thùy, vợ của ông ta. Người đàn bà sinh trưởng bên dòng sông Hương, đôn hậu, điềm đạm sống chiều chuộng chồng con. * * * Thời gian đằng đẵng trôi qua. Từ ngày Tôn bỏ dạy kèm cho Tâm và Trí, hình bóng người yêu cứ lởn vởn trong đầu chàng, cố quên đi mà bất lực. Một hôm chàng đạp xe ngang qua chiếc xe buýt đang dừng tại trạm, bỗng nghe tiếng gọi: - Anh Tôn. Biết đó là tiếng gọi của Việt Anh, chàng ngoái đầu nhìn lại. Nhưng chiếc buýt đã vượt qua mặt chàng chỉ còn nhìn thấy cánh tay trần vẩy vẩy qua cửa sổ xe. Điều khiến chàng ngạc nhiên là tại sao nàng đi xe buýt. Thông thường, ba chị em Việt Anh dùng xích-lô đi học hàng ngày. Trước kia, những ngày không gặp nhau, Tôn nhớ vô cùng đến mái tóc đen tuyền và đôi mắt tròn xoe của nàng. Nhưng giờ đây mỗi lần nghĩ đến nàng là hình ảnh đôi mắt cuồng nộ và bàn tay thô bạo của người cha hiện lên làm nhức nhối tâm não chàng. Cái tát tàn nhẫn giáng vào má con gái ông ta có khác nào mũi dáo phóng vào trái tim Tôn. Năm dấu ngón tay in hằn trên chiếc má mịn màng, măng tơ của người yêu là vết thương để lại trong trái tim chàng. Cuộc sống tấp nập, hối hả giữa thành phố Sài Gòn đông đúc như dòng nước cuốn xoáy không ngừng. Chỉ trừ những ngày Tết Nguyên Đán mới thực sự mang lại cho người Sài Gòn niềm rạo rực tuổi thơ và sự nghỉ ngơi suốt một năm trời vất vả. Ngày cuối năm, Tôn dạo chợ hoa trên đường Nguyễn Huệ cho khuây khỏa nỗi nhớ nhà. Nơi đây người ta chưng đủ các loại hoa rực rỡ suốt một đoạn đường. Khu cây kiểng bonsai cũng muôn hình muôn vẻ. Tôn thích thú ngắm hết ảng nầy qua ảng khác. Chợt, một gốc mai già hiện ra trước tầm mắt khiến chàng chú ý. Gốc mai cổ thụ có hình dáng rất thanh tao, phóng khoáng mà kiêu sa. Những búp hoa no tròn xanh mướt, đệm dăm bảy bông đã nở vàng óng ả. Cây mai cuốn hút chàng, bởi nó như là một kỷ niệm hiện về. Chợt chàng khẻ kêu lên : “Chẳng lẽ đây là gốc mai già trên sân thượng nhà Việt Anh ?” Đưa mắt nhìn quanh khu cây kiểng, chàng phát giác thêm gốc cây tùng như một thiền sư ngồi kiết già dưới vòm cây cổ thụ. Tôn tự hỏi tại sao những cây bonsai quý giá nầy lại về tay kẻ khác. Chàng tò mò hỏi người chủ đứng bán: - Thưa ông, làm sao ông có những cây cổ thụ quý giá nầy? - Ngộ mua từ một tay trung gian pán lại. - Thế ông có biết tên người chủ trước của những cây nầy. - Làm sao ngộ piết được, cái lị lầy! Tôn lập tức quay về, phóng xe đến nhà Việt Anh. Hỡi ôi! Căn nhà đã đổi chủ. Chàng nhìn lên sân thượng trống không, ngẩn ngơ một hồi lâu. Đã xảy ra chuyện gì cho gia đình bà Thùy? Tôn về nhà mà lòng cứ băn khuăn mãi. * * * Quân trường Thủ Đức, ngày cuối tuần tấp nập thân nhân Sinh viên Sĩ quan đến thăm. Vì mới nhập khóa chưa đến ngày lễ gắn alpha do đó Tôn không được đi phép cuối tuần. Nằm lẻ loi trong phòng đại đội khóa sinh, Tôn thấy nhớ mẹ xót xa. Bỗng, thằng bạn trực đến gõ chân chàng báo có thân nhân đến thăm.Tôn phóng mình xuống đất, vội vã sửa lại quân phục chỉnh tề, lau đôi giày thật bóng, đội chiếc mũ nồi đúng quy định, rồi chạy một mạch ra ngoài khu tiếp tân. Đứng trong hàng quân chờ đợi sĩ quan trực gọi tên, Tôn thử suy đoán ai là người đến thăm mình; Người chị bà con và bạn dạy cùng trường Trần Thịnh đã đến thăm tuần vừa rồi, mình còn ai nữa đâu. Chợt loa phóng thanh gọi tên sinh viên sĩ quan Nguyễn Trọng Tôn kèm theo đơn vị khóa sinh. Từ trong đám thân nhân ngồi chờ nơi lều khách, một người con gái bước ra.. “Việt Anh !” Tôn thầm kêu lên. Làm sao nàng biết chàng bị động viên vào đây. Lòng bồi hồi xúc động, Tôn bước đến bên nàng. Việt Anh nhìn Tôn với ánh mắt chan chứa yêu thương, rồi từng giọt lệ lăn tròn trên má. Nắm lấy tay nàng, bàn tay mỏng mảnh gầy gò, Tôn đưa nàng đến ngồi dưới bóng mát tàn cây.. Bỗng, nàng gục đầu vào vai Tôn khóc nức nở : - Ba em mất rồi, anh có biết không? Nàng đau đớn hỏi chàng trong nước mắt. - Hả, bố em chết ? Tôn bàng hoàng kêu lên. Nàng tiếp : - Một quả lựu đạn nổ trong phòng của ba em. Người chết ngay trong giấc ngủ. Đến bây giờ vẫn chưa biết nguyên nhân nào gây ra án mạng. Vì cạnh tranh trên thương trường hay thù oán trong tình trường? Chẳng biết nữa. Công tác điều tra dường như bế tắc. Các cổ phần lần lượt rút ra. Công ty của ba hoàn toàn bị phá sản. Me em đã bán căn nhà cũ, bán luôn chiếc đàn piano, mấy chục ảng kiểng trên sân thượng. Bà mua một căn nhà nhỏ ở gần chợ Thủ Đức. Em không theo đại học, ở nhà phụ với me bán sạp vải để lo cho Tâm, Trí ăn học. Vừa rồi, em gặp thầy Thịnh, bạn anh cho biết anh đã nhập ngũ. Nhờ vậy, em mới vội vã vào thăm anh. Me,Tâm và Trí nhắc đến anh luôn. Chúng nó không biết lý do gì mà anh bỏ dạy, bỏ luôn số tiền lương trong tháng. Phần em thì vô cùng đau khổ. Biết anh giận và coi thường ba em đã đối xử thô bạo với con gái của mình ngoài đường phố. Em không dám trách anh đã xa lánh em. Hành động của ba em đã xúc phạm lòng tự ái của anh. Giờ đây ba không còn nữa, mong anh xóa hết cho Người. Việt Anh ngưng nói úp mặt vào ngực chàng thổn thức. Tôn quàng tay siết chặt đôi vai gầy cánh hạc và nhẹ nhàng hôn lên mái tóc thoang thoảng hương bồ kết lá chanh của nàng khiến lòng chàng ấm lại dưới bầu trời rực nắng của những ngày đầu Xuân . Sau ngày mãn khóa, các tân sĩ quan được nghỉ phép về thăm gia đình . Tôn dành hết thời gian ấy để gần gũi và an ủi Việt Anh. Tình yêu nồng nàn, say đắm, họ hối hả cho nhau những giờ phút thần tiên nhất của đôi tình nhân đã phải mất nhau một thời gian khá dài. Những ngày hạnh phúc tuy ngắn ngủi nhưng đã khắc sâu trong tìm thức của hai người những kỷ niệm một đời khó phai. Thấm thoát mười lăm ngày phép qua đi, Tôn từ biệt người yêu lên đường ra đơn vị. Việt Anh đã khóc ngất trên vai chàng khiến Tôn chần chừ mãi. Đến phút chót, chuyến máy bay quân sự sắp đến giờ cất cánh, chàng mới giao cho hai em Tâm và Trí chăm sóc người chị gái... * * * Xe đột ngột quanh gấp vào cửa ngõ rồi dừng lại trong garage, khiến dòng ký ức của Tôn bị cắt ngang. Chàng uể oải vào nhà. Chưa kịp thay áo quần thì phôn tay reo lên, Tôn vội vàng mở phôn : - Hello, tôi nghe. Bên kia đường dây, giọng một ngưới đàn ông : - Xin cho gặp ông Nguyễn Trọng Tôn. - Vâng, Tôn đây. - Hi anh Tôn, em là Hà Thúc Tâm. Cháu Nhi mới cho em biết số điện thoại của anh. Mừng quá nên em gọi liền cho anh. Ôi, từ bao lâu nay bọn em cứ tưởng anh đã hy sinh trong trận chiến Hạ Lào . Nào ngờ anh em mình lại gặp nhau trên đất Mỹ. Chị Việt Anh biết được tin nầy chắc bà ấy mừng đến đứng tim. Thôi để anh nghỉ ngơi, hẹn anh ngày mai. Dù có định đi đâu cũng xin anh cho bọn em một ngày để gặp nhau. Sáng mai 9 giờ em sẽ đến nhà chở anh. Bye- bye nghe anh. Tôn chưa kịp hỏi han , Tâm đã cúp máy. Từ sáng sớm, Tâm đã điện thoại đến nhờ người em của Tôn chỉ đường. Giây phút đầu gặp Tâm, cả hai đều xúc động. Rồi Tâm chở Tôn đến nhà mình. Một căn nhà biệt lập nằm bên chân đồi trồng đầy hoa thể hiện cuộc sống hạnh phúc của chủ nhân. Bên tách cà- phê, Tâm tâm sự : - Hôm anh lên máy bay ra đơn vị, chị Việt Anh đột ngột khó thở em phải đưa vào bệnh viện. Sau khi khám nghiệm, Bác sĩ cho biết chị đang có triệu chứng cấn thai, thần kinh yếu nên dễ bị kích động. Sự phát hiện đó đã làm cho Me em đau buồn vì thực sự anh chị chưa làm đám cưới. Nhưng ngược lại, chị Việt Anh lại vui mừng. Khi anh gởi thư về báo tin đang đóng quân tại vùng giới tuyến khiến cả nhà đều lo lắng. Chị Việt Anh lập tức viết thơ cho anh báo tin mừng chị sắp có con. Dù thơ đi cả mấy tháng trời mà chẳng thấy thư hồi âm nhưng chị vẫn viết đều đều cho anh hàng tháng. Rồi một hôm, nhân viên bưu điện đem đến một bì thư lớn. Trong đó đựng số thư chưa khui của chị Việt Anh gởi cho anh từ bao lâu nay và kèm theo bức điện thư của Hậu cứ đơn vị báo tin anh đã mất tích tại chiến trường Hạ Lào. Chị Việt Anh đau đớn tột độ trước cái tai họa giáng xuống đời chị. Chị lại ngất xỉu trong cơn nguy ngập khiến cái thai sinh non . Vì vậy lúc nhỏ cháu Trọng Nhi èo uột lắm . Tôn kinh ngạc kêu lên : - Trọng Nhi là con gái của anh? - Vâng, nó là con anh. Cháu Nhi đã được bệnh viện cứu sống. Tôn vụt đứng lên như muốn làm một điều gì đó cho nhẹ bớt nỗi ân hận đang đè nặng trong tâm tư mình. Chàng nói: - Tâm à, ngày đó mà anh biết chị Việt Anh mang thai, có thể anh chưa ra đơn vị. - Có lợi gì đâu. Tâm trả lời Tôn rồi quay sang hỏi : - Anh đã gặp cháu Nhi tại phi trường phải không ? - Trên máy bay và ngồi ngay bên cạnh anh, Tâm ạ. Phút đầu tiên nhìn thấy cháu anh phát giác có nét giống mẹ anh và một người nào đó mà anh nghĩ mãi không ra. Ôi, tạ ơn Thượng đế đã dun dũi cho cha con anh gặp nhau một cách kỳ diệu. Giờ đây anh rất nôn nóng muốn gặp chị Việt Anh và cháu Trọng Nhi. Được không, hở Tâm ? - Được chứ anh. Nhà chị và cháu cũng gần đây thôi. Mời anh dùng điểm tâm với vợ chồng em rồi hãy đi không muộn. - Còn Me hiện giờ ở đâu, sức khỏe ra sao, Tâm? - Me không được khỏe lắm, bịnh già mà. Hiện giờ bà sống với vợ chồng Trí ở tiểu bang Virginia. À, Xin lỗi, anh có thể cho em biết về gia cảnh của anh hiện giơ như thế nào? Ánh mắt xa xăm với nỗi buồn thoáng qua,Tôn nói: - Như em biết đó, chỉ kịp viết cho Việt Anh một lá thư đầu tiên khi đến đơn vị. Vài tháng sau là bọn anh có lệnh tham gia chiến dịch Lam Sơn 719. Trên đường chuyển quân, đơn vị anh bị địch phục kích gần cửa ngõ vào Schépone, hạ Lào. Anh bị bên kia bắt sống đưa về cầm tù ở Lào rồi chuyển về trại tù ngoài Bắc Việt. Tới năm 1980 bọn anh mới được thả về. Anh có vào Sài Gòn đến nhà cũ tìm chị Việt Anh nhưng nhà đã thay chủ. Sau đó, nhờ bạn bè gởi gắm trên một chuyến tàu vượt biển, anh đến được trại tỵ nạn Thái Lan. Hiện giờ anh sống tại tiểu bang California. Trên đất Mỹ, anh đã một lần lấy vợ, nhưng không hợp tính tình nên chúng tôi chia tay sau vài năm chung sống. Vừa ăn xong bát phở, Tôn hối thúc Tâm chở chàng đến nhà Việt Anh. Tâm đề nghị Tôn đứng ngoài, không nên vào nhà vội vì bà chị chàng dễ bị xúc động. Mười lăm phút sau, xe đậu trước sân nhà. Tâm bấm chuông,Việt Anh mở cửa, hỏi : - Cậu đi một mình, sao không đưa mợ theo? Không đợi Tâm trả lời, nàng khép cửa lại rồi vội vàng tiếp : - Chị nghe cháu Nhi bảo có ông “Tơn” nào đó xưng là bạn của em và Trí còn biết cả tên chị nữa. Tâm nghĩ thầm : “ Có lẽ nhờ cái tên Tơn theo lối phát âm tiếng Anh của Nhi nên bà chị không để y ”. Tâm chợt nhớ đến đứa cháu gái, vội hỏi: - Trọng Nhi đâu chị ? - Cháu nó đi chợ. Việt Anh vừa trả lời cậu em thì thình lình cửa mở. Trọng Nhi bước vào nhà reo lên : - Me ơi, Bác Tơn bạn của hai cậu Tâm,Trí mà con gặp trên máy bay, bác đến thăm me đây nờ. Tôn xuất hiện đột ngột trước mặt Việt Anh. Nàng khựng lại, tròn xoe đôi mắt nhìn chăm chăm người khách lạ. Rồi như có một thần lực cực mạnh đẩy nàng nhào tới ôm chầm lấy Tôn. Việt Anh kêu lên đầy xúc động: - “Ôi, ba con Nhi” ! Nước mắt của Tôn tuôn thành dòng khi Trọng Nhi đến ôm chàng, lên tiếng gọi: “ Ba ơi.” Hai bàn tay Tôn đặt lên hai mái đầu, một già, một trẻ đang áp trên đôi vai chàng thổn thức. Mùi hương bồ kết lá chanh thơm nồng trên tóc của hai mẹ con đã sưởi ấm lòng Tôn suốt hai mươi ba năm dài cô quạnh.. Bên ngoài, nắng vàng lên rực rỡ. Cây lá reo vui đón cơn gió mát từ biển thổi về. Thành phố Hoa Hồng lại thơm ngát một mùa bông../ CON LU NHÀ TÔI Trong ba chú chó mới sinh, bà dì ở Đà Lạt cho tôi một con và được chọn ưu tiên. Cả ba đều là chó đực nên chỉ cần lựa con nào có bộ lông đẹp nhất là đủ. Khi tôi ngồi sà vào ổ của ba chú chó chưa mở mắt, chợt con có màu lông xám, hai đốm vàng trên lưng ngúc ngoắc đầu đánh hơi bò về phía tôi. Nó đưa cái mõm mũm mĩm, ươn ướt ủi vào bàn chân của tôi. Cái đuôi cũn cỡn ngoe nguẩy như loài chuột xạ... Hai tuần lễ sau tôi ghé thăm dì. Bầy chó đã mở mắt đang ngậm vú mẹ. Khi nghe tiếng tôi trốc trốc, chú chó lông xám ấy bỏ vú mẹ bò vào lòng tôi. Dù màu lông không nổi bật như hai con kia nhưng tôi thích cái tính thân thiện của nó ngay từ giờ phút đầu. Mang chó về nhà, con tôi chê màu lông nhớp nhem rồi tự động đặt tên là Lu. Dù mới một tháng tuổi, nhưng khi rời chó mẹ về nhà tôi, Lu ít khi kêu đêm như những chú chó con khác. Ban đầu cho Lu bú bằng bình sữa, rồi cho ăn sữa đặc đổ vào đĩa. Chỉ ba tháng sau là Lu lớn như thổi. Lai lịch của dòng họ nhà Lu cũng ly kỳ lắm. Jolie là tên mẹ của Lu, giống chó xù Nhật Bản, nhỏ con, chân thấp, dáng đi lũn cũn. Nó hay qua nhà láng giềng đùa giỡn với anh chàng berger to con, tai vểnh, đôi chân sau vạm vỡ. Một hôm, lũ trẻ đến trước nhà Dì tôi kêu giậât giọng rằng là con Jolie bị con chó berger của ông Tư Đợi tha đi khắp khu vườn. Dượng tôi hốt hoảng chạy sang. Những tưởng con berger đã cắn chết con xù của nhà dượng. Nào ngờ cảnh tượng lạ lùng rất khó tin đã xảy ra: Con berger lẹo với Jolie nhỏ hơn nó gấp mấy lần. Vì là phần kết thúc sau “cuộc mây mưa” của loài chó, cho nên hắn na con cái còn mắc cứng phía sau đuôi. Hai chân sau của con Jolie bị treo hỏng trên cao chỉ còn cái mõm và đôi chân trước bị kéo lê trên đất. Nàng kêu toáng lên khiến chàng đâm hoảng na chạy khắp vườn như na cái đuôi của mình trở nên nặng chình chịch. Kết quả cuộc tình giữa hai “chủng tộc”, nàng Jolie đẻ ra ba chú chó lai. Nhờ vậy mà đời con của nàng không còn mang dáng dấp thấp lè tè của loài chó xù nữa. Con Lu lớn lên bộ lông ngày càng đẹp. Màu xám của mẹ pha màu vàng của bố mướt mượt như nhung. Hai đốm vá màu vàng đậm nằm hai bên hông, thoạt trông như yên ngựa. Dù không to con lớn xác như bố nhưng con Lu cũng vượt trội hơn đám chó nhà. Chân cao, dáng đi oai vệ như loài hổ. Hai vai rộng, u thịt nổi vồng lên khi nó bước đi. Cặp mắt ánh lên màu lửa như có thần lực. Đàn chó hàng xóm gặp Lu là cụp đuôi chạy dài. Sau này, những lần đi săn giải trí loanh quanh ở những khu đồi còn an ninh, tôi mới nhận biết loài chồn, loài thỏ thấy Lu là hồn xiêu phách lạc, đứng chôn chân tại chỗ. Mỗi lần con tôi đi học về là dành nhau ôm Lu vào lòng. Tình cảm giữa chó và người không hề phân biệt. Ngoài cái khứu giác bẩm sinh độc đáo của loài chó có thể đánh hơi hàng mấy dặm, thính giác con Lu còn phân biệt được tiếng xe quen thuộc của tôi từ xa.. Nó nghểnh mõm, ve vẩy đuôi chạy ra trước sân. Nhìn cử chỉ đó là nhà tôi đoán biết tôi sắp về đến nhà. Lu cạ vào chân tôi từ lúc xuống xe đến khi tôi vỗ về âu yếm nó mới chịu đi nơi khác. Lu cũng cảm nhận khá nhạy bén lúc tôi buồn bực hay giận hờn. Những lúc ấy nó nằm khoanh tròn nhìn tôi với ánh mắt buồn xo. Đến khi tôi vui vẻ trở lại là Lu chạy đến cạ lưng vào người và liếm tay tôi như để hòa đồng niềm hân hoan với chủ. Sau ngày “gẫy gánh 75”, tôi lên đường trình diện ban Quân quản thị xã. Tôi mang theo mười ngày gạo cùng ít đồ dùng, từ biệt vợ con với bao âu lo trong lòng. Khi bước ra khỏi cửa, con Lu cứ luấn quấn cản bước chân, tôi trực nhớ đến nó liền cúi xuống ôm Lu vào lòng. Ánh mắt ươn ướt buồn thiu của nó nhìn tôi chẳng khác gì đôi mắt của vợ tôi rươm rướm lệ. Lu liếm vào mặt tôi như quyến luyến từ biệt chủ phải đi xa lâu ngày. Trong tù, nhớ lại ánh mắt con Lu, tôi hiểu ra rằng loài chó còn có một giác quan đặc biệt, cảm tính rất nhạy bén về thái độ và tâm trạng của người gần gũi nó . Những tưởng mười ngày nửa tháng rồi quay về, nào ngờ cách biệt gia đình với thời gian dài hun hút. Tôi nhớ con Lu cũng tương tự như nhớ các con tôi. Nỗi lo ngại của tôi là lương thực ngày một khó khăn làm sao vợ tôi chạy đủ bữa cho đàn con bốn đứa lại thêm miệng ăn con chó. Một ngày nọ, nhà tôi lên trại tù thăm, cho biết chú Dương Thái Lân, con của bà cô Út tôi từ Bắc về Nam có ghé thăm gia đình. Chú ấy bảo con Lu có cốt tướng nòi săn, muốn xin nó về đơn vị nuôi để săn mồi cải thiện thịt tươi. Lân là vai em nhưng lớn tuổi hơn tôi nhiều. Đi bộ đội từ trước 1954, sau tập kết ra Bắc được sang Tiệp Khắc học ngành cầu đường. Hiện là thủ trưởng đơn vị Công binh sửa đường ở Cao nguyên. Vợ tôi nhất quyết không cho con chó, lấy lý do phải qua ý kiến của chồng. Một hôm, quản giáo trại gọi tôi lên văn phòng ban giám đốc. Một anh bộ đội mặc áo quần đại cán ngồi trong phòng tiếp khách tay cầm một tờ tạp chí cuốn tròn. Anh cán bộ thấy tôi vào, liền hỏi : - Nguyễn Tấn đấy à? Tôi ngập ngừng : -Thưa vâng, -Tôi là Dương Thái Lân. Tôi à lên một tiếng để tỏ rằng mình biết hắn là ai. Thực ra, qua 21 năm ở Bắc và mấy năm đi bộ đội Vệ Quốc Đoàn làm sao tôi nhớ nỗi cái khuôn mặt ngày xưa của thằng em con bà cô Út. Đưa tờ báo cuốn tròn cho tôi, Lân bảo : - Ngày trước anh cũng viết sách, làm báo dữ dằn đấy nhỉ ? Tôi mở cuộn báo thì ra là tờ Bán nguyệt san Quyết Tiến. Đó là tạp chí do tôi trách nhiệm biên tập trước 75 do cơ quan USAID của Hoa Kỳ yểm trợ ngân khoảng để in ấn phân phát cho các đơn vị Địa phương quân và Nghĩa quân. Tôi nghi là Lân đã tìm thấy tập báo nầy trong tủ sách tại nhà tôi. Lân bảo : - Tôi có đọc trong đó truyện dài “Nhật Ký Bích Phương” của anh viết đăng nhiều kỳ về Tết Mậu Thân 68. Viết bạo đấy chứ. Tôi giật mình và cảm thấy bất an. Lân đưa tay ra hiệu lấy lại cuốn tạp chí rồi lên tiếng: - Tôi có ghé nhà thăm chị Tấn. Giai đoạn này mà trong nhà còn nuôi con chó kiểu tiểu tư sản. Anh không sợ cặp mắt của quần chúng hay sao ? Tôi than thở : -Thời gạo châu củi quế, nhà tôi phải chạy gạo cho bốn miệâng ăn, nhưng vì nuôi nó từ lúc mới sinh nên tình cảm gắn bó như thành viên trong gia đình. Hắn ngắt lời : - Tôi có đề nghị với chị cho tôi mang con chó đó về đơn vị để đỡ bớt khẩu phần ăn cho gia đình nhưng chị bảo phải qua ý kiến anh. Mới nhìn là tôi biết nó thuộc giống chó săn quý hiếm và có thể chống lại cả thú dữ. - Nếu chú thích con chó thì về hỏi nhà tôi, quyền quyết định ở bà ấy. Tôi trả lời. Lân đưa cho tôi một cây thuốc Điện Biên, tôi từ chối không nhận vì tôi đã bỏ hút thuốc từ lâu, rồi chào hắn quay về trại. Đến kỳ thăm nuôi sau, bà xã tôi báo tin chú Lân đến nhà bắt con Lu đi rồi. Bỗng dưng mắt tôi như nhòa sương, lòng xót thương con Lu vô hạn. Từ ngày vào tù, tôi nghi ngờ tất cả những gì người ta nói. Giờ đây Lân bảo đem Lu về nuôi hay ăn thịt chỉ có trời biết. Thấy mắt tôi rưng rưng ngấn lệ, vợ tôi an ủi: - Lũ con mình cơm không đủ ăn mà phải nhường cho chó một ít, lòng em cũng xót xa lắm. Nó thiếu ăn nên cả đêm chạy rông kiếm mồi đến sáng mới về nhà. Lông nó ướt nhớp nháp, đầy bùn. Biết đâu có cơm bộ đội dư thừa thân nó sẽ mập ra. Mình có giữ lại một thời gian sau cũng bị người ta đập chết làm thịt thôi. Xã hội bây giờ thiên hạ ghiền thịt chó lắm, anh có biết không? Hết giờ thăm nuôi, tôi đứng vào hàng. Nhìn đôi mắt nhòa lệ của vợ khiến lòng tôi xót xa vô cùng. Cả đêm hôm đó hình bóng con Lu cứ chập chờn trong giấc ngủ. Tôi mơ thấy đôi mắt buồn rười rượi của Lu nhìn tôi trong ngày ra đi như báo hiệu rằng nó không còn dịp gặp chủ nữa. Cái cảm giác man mác êm êm của lưỡi nó liếm vào mặt, vào cổ, giờ đây tôi vẫn không quên. Niềm tin gắng gượng nhỏ nhoi vào lời hứa của chú em con bà cô là xin con Lu để canh chừng thú dữ và săn mồi. Vả lại, cái công khó của Lân đã lặn lội đường xa đến trại cải tạo để gặp tôi nên cũng an ủi phần nào. Ba tháng sau, vợ tôi với khuôn mặt hớn hở báo với tôi con Lu không còn ở với chú Thái Lân nữa. Tôi ngạc nhiên hỏi dồn. Nàng kể: - Cách đây một tuần lễ, chú ấy bất thần vô nhà mình không giữ kẽ như những lần trước. Chú dáo dác nhìn trước nhà, nhìn sau nhà, cả cái phòng ngủ của vợ chồng mình chú cũng ghé mắt quan sát. Đột nhiên Lân hỏi: - Con Lu có chạy về đây không chị ? Em sững sờ hỏi: - Nó ở với chú mà ? - Tức lắm chị ơi, Lân ngồi vào cái ghế đặt ngoài hiên, nói tiếp : - Trước khi đi công tác Hà Nội, tôi gởi Lu cho chị nuôi lo ăn hàng ngày. Không ngờ các đồng chí trong đơn vị lợi dụng lúc tôi vắng nhà, bắt con Lu làm thịt đánh chén. Các anh ấy bỏ con chó vào bao bố dìm xuống nước. Khi mởû bao ra con chó không còn thở nữa. Họ yên chí ngồi chờ nồi nước đang nấu cho thật sôi để cạo lông. Ca nước sôi đầu tiên tưới vào lưng con Lu, bất ngờ nó vùng dậy chạy đi mất dạng. Lập tức các đồng chí ấy cầm súng lùng sục các ven rừng nhưng chẳng thấy nó đâu nữa. Tôi yên chí con Lu sẽ trở lại nhà chị vì nó vừa khôn vừa có sức mạnh khác thường. Tôi đánh giá thành tích săn bắt mồi của con Lu rất cao. Nó thường xuyên bắt được chuột đồng, thỉnh thoảng chồn hoặc thỏ. Mình có chất tươi thêm vào bữa ăn nên tôi quý nó lắm. Kể xong, Lân đi ra xe xách vào một bao cát đựng đầy gạo, bảo : - Đây là số gạo tiêu chuẩn tôi đi công tác còn thừa, chị nhận cho các cháu bồi dưỡng và thêm phần cho con Lu. Nếu nó có trở về đây xin chị báo tin cho tôi biết. Lân ra đi được một ngày. Hôm sau, lúc chạng vạng tối, cả nhà đang ăn cơm, con Lu không biết từ đâu chạy xồng xộc vào nhà, mình nó ướt đẫm mồ hôi. Trên lưng một vết phỏng to bằng bàn tay lột hết lớp lông và đã bắt đầu làm mủ. Lũ con mình ôm con Lu vào lòng mừng rơi nước mắt. Cả nhà phải nhịn một phần cơm cho nó. Loáng cái là nó vét sạch đĩa cơm độn sắn. Lu ve vẩy đuôi, đưa lưỡi liếm từng người trong gia đình như để điểm lại những người thân. Mấy đứa con mang Lu ra giếng chà xát xà phòng, tắm rửa, bắt sạch ve vắt bám vào da. Em khui bình thuốc Peniciline rắc lên vết phỏng. Chờ đến tối, bọn em mang Lu về gởi cho ông bà ngoại vì biết thế nào chú Lân cũng trở lại tìm chó. Đêm đó, Lu cứ theo chân em đòi về, thằng Doãn phải ngủ nhà ngoại để giữ con Lu ở lại. Em vuốt ve vỗ về: - Con phải ở lại đây với ngoại. Lu không được theo mẹ về nhà, người ta sẽ đến bắt con đi, biết hông ?”. Lu vểnh tai nghe lời em dặn nên ngoan ngoãn nằm trong lòng của Doãn mà không còn hậm hực đòi về nữa.” Từ đó, hễ thấy người lạ vào nhà là Lu chui dưới gầm giường chìa đầu ra, nhe răng gầm gừ. Chỉ cần một cú giậm chân là đủ để nó phóng ra vồ ngay. Sau lần thoát chết, con Lu nghi ngờ hầu hết mọi người, chỉ trừ gia đình tôi và ông bà ngoại. Tính thân thiện của con Lu giờ đây không còn nữa. Loài chó rất trung thành với chủ nhưng khi bị một lần đối xử tàn nhẫn với nó là bỏ nhà đi luôn. Gia đình ông bố vợ tôi tuy ở thị trấn nhưng vì là vùng đất đai đã tạo mãi từ trước khi trở thành thị tứ nên nhà cửa vườn tược rộng thênh thang. Tiếp giáp với vườn cây ăn trái là cánh đồng mía, nay thuộc hợp tác xã nông nghiệp. Lu không bao giờ ra trước đường phố mà chỉ lùng sục trong vườn cây, ruộng mía sau nhà tha hồ bắt chuột, chim chóc, rắn rít. Nó sống như một tử tù thoát ngục. Nó biết ngoài xã hội loài người đang nhìn nó một cách thèm thuồng. Họ chỉ chờ cơ hội là biến thân xác nó thành miếng nhừ, miếng mận. Ngày ra tù, tôi vào thăm ông bà nhạc gia. Khi vợ chồng tôi vừa đến cổng nhà, con Lu đánh hơi được từ trong nhà phóng ra chồm lên người tôi. Với sức nặng của nó đã khiến tôi té ngồi xuống đất. Người nhà ngỡ con Lu tấn công kẻ lạ mặt nên vội la lên : “ Bố đấy Lu, tránh ra!” Nhưng không. Nó xoải hai chân trước đứng trên đùi tôi rồi đưa lưỡi liếm trên khắp mặt mày, tai cổ của tôi. Qua cơn hốt hoảng vì cú ngã bất ngờ, tôi hiểu ra con Lu đang mừng chủ. Tôi liền ôm chầm lấy nó rồi người và chó lăn lộn trên nền sân xi-măng. Cha mẹ vợ tôi vui mừng thấy con rể được ra tù. Hàng xóm đứng nhìn cảnh người vật ôm nhau, họ không tránh khỏi xúc động trong lòng. Sáu tháng sau, nhà tôi sắp xếp cho tôi và thằng con trai lớn một chuyến vượt biển. Tôi phải xin hộ khẩu ở nhà bà dì tận làng An Vĩnh gần mũi Ba-Tâng-Gâng. Tôi có tên trong tổ hợp đánh bắt cá bằng lưới mành với ông dượng và mấy người em bà con. Tôi dắt con Lu theo để tránh cặp mắt của láng giềng và tránh luôn chú Lân bất thần đến nhà bắt gặp nó. Trước một ngày tới điểm hẹn, vợ tôi dẫn thằng Doãn, con trai đầu lòng của tôi xuống nhà bà dì để chuẩn bị lên đường. Sáng hôm sau, nhà tôi mang con Lu lên xe lam trở về nhà. Đêm 30 tháng hai âm lịch, trời không trăng nhưng rừng sao trên trời đủ soi rõ đường đi trên bãi cát trắng lờ mờ. Hơi nước biển mát lạnh cùng với ngọn gió tây thổi lồng lộng làm cho đám người trốn trong các bờ bụi rét run cầm cập. Họ cố dõi mắt về hướng biển. Mười giờ... mười một giờ... đến mười hai giờ ba mươi khuya, ánh đèn pin từ gành đá chợt nháy sáng báo hiệu ghe con đã đến. Tốp đầu tiên gồm bốn người lần lượt tiến ra gành đá. Tiếp theo là hai cha con tôi cùng hai người ở cánh bắc cũng xuất hiện. Cuộc “ra quân” âm thầm nhưng đúng theo thứ tự ấn định. Còn mười phút nữa mới đến tốp cuối cùng. Bỗng, phía sau làng có tiếng chân người chạy rầm rập rồi tiếng súng nổ loạn xạ. Toán đầu quay trở lại chạy tản mác vào xóm. Hai người cánh bắc cũng thế. Riêng tôi chạy băng qua gành rồi luồn vào lùm cây đước . Thằng Doãn, trước khi đi tôi đã dặn dò kỹ lưỡng. Nếu họ bắt được là cứ khai đi một mình đừng để liên lụy đến Ba. Toán du kích chia nhau chạy lùng trong xóm. Một du kích đuổi theo Doãn, đến gần bìa làng anh ta chộp được cổ con tôi. Thằng bé la toáng lên : “Thả tôi ra, thả tôi ra”. Anh du kích xách thằng bé lên cao. Tay chân nó không ngừng giẫy giụa. Chợt, một bóng đen từ trong hàng dừa phóng ra nhảy chồm lên bám vào cổ anh du kích. Con chó ! Tôi thầm kêu lên. Nó tấn công khá bất ngờ khiến anh ta đánh rơi cây súng và buông thằng nhỏ để đánh vật với con chó. Anh ôm đầu con chó nhưng răng chó càng lúc càng lún sâu vào cổ như con quỷ Dracula đang hút máu người. Hắn kêu cứu. Một lúc sau mới có đồng đội đến tiếp sức. Con chó cũng vừa nhả ra chạy vào trong xóm. Một loạt súng của người mới đến bắn đuổi theo. Tôi nghe tiếng ăng ẳng của chó từ trong xóm vọng ra. Một nghi ngờ thoáng qua, chẳng lẽ con Lu ? Nhưng tôi yên tâm ngay bởi con Lu đã được vợ tôi dẫn về nhà trong ngày hôm trước. Núp trong đám cây đước tôi quan sát đầy đủ cảnh chó và người vật nhau. Con chó xuất hiện trong bóng đêm chớp nhoáng như loài sói vồ mồi. Hình ảnh con chó ngoạm cổ anh du kích, tôi liên tưởng đến ma cà rồng đội lốt chó để hút máu người. Nhưng dù ma hay chó tôi cũng thầm cảm ơn nó đã giải cứu cho con tôi và giải thoát được bao nhiêu người. Tôi về đến nhà lúc tờ mờ sáng nhờ chiếc xe Honda thồ đi kiếm khách sớm. Tắm rửa thay áo quần xong, chợt nhớ đến con chó . Tôi hỏi vợ : - Con Lu đâu? Bà ấy bảo: - Khi xe lam vừa đến ngả ba quốc lộ, con Lu vọt xuống xe chạy ngược theo con đường về hướng biển. Em nghĩ nó trở lại với anh và con. Nếu có điều gì không may xảy ra cho nó thì em biết làm sao bây giờ. Tôi nhìn vợ buông tiếng thở dài : - Thôi rồi ! Tôi nghĩ ngay đến tiếng kêu đau đớn của chó vang lên sau tiếng súng. Con Lu có thể chết vì loạt đạn bắn theo. Tôi cảm thấy đau xót vô cùng. Chờ trời tối hẳn, dì tôi mướn xe Honda thồ đưa Doãn về với chúng tôi. Vợ tôi ôm con vào lòng, khóc thút thít: - Giờ con đã thoát được về đây với mẹ cùng các em. Từ nay trở đi, đói no, chết sống mẹ nhất quyết không để gia đình ta chịu cảnh phân ly. Doãn nhìn tôi hỏi: - Ba có thấy con Lu không? Chẳng đợi tôi trả lời, Doãn quả quyết: - Lúc ông du kích buông con ra, trước khi chạy trốn, con có quay lại nhìn thấy con Lu đang ngoạm cổ ông ấy. - Như vậy là con Lu đã chết vì loạt đạn, không còn nghi ngờ gì nữa. Tôi kết luận . Các con tôi đứa nào cũng rưng rưng nước mắt. Tôi an ủi: - Dù sao thì mình đã dành tình thương và chăm sóc Lu như con trong gia đình. Nó có chết cũng là cái chết có ý nghĩa, một nghĩa cử vô cùng cao quý của loài chó không khác gì con người. Cả nhà đang say ngủ. Đột nhiên, tôi nghe tiếng cào sột soạt vào cánh cửa trước. Im ắng một hồi lâu, tiếng cào lại nổi lên lần nữa. Ghé mắt nhìn ra ngoài, tôi chẳng thấy gì cả. Chỉ có bóng đêm bao trùm và sương mù dày đặc phủ đầy trời. Tôi thiếp đi một chốc. Tiếng sột soạt nổi lên lần thứ ba. Lần nầy lâu hơn và ở ngay cánh cửa hông. Tôi vội bật đèn lên, hé cửa nhìn ra. Hốt hoảng, tôi kêu lên : - Em ơi, con Lu trở về. Cửa mở toang, Lu đi khập khiễng vào nhà. Tôi ôm Lu vào lòng và nước mắt tôi tuôn trào. Tôi khóc vì vui mừng và khóc vì thương nó quá đỗi. Bầy con tôi xúm vào quấn quýt bên Lu. Máu khô bê bết trên mông và đùi trái của nó. Một viên đạn ghim vào đùi sau, rất may là không đụng xương. Tôi rửa sạch vết thương bằng rượu cồn, xoa thuốc đỏ rồi băng kín vết thương lại. Từ năm 1986 chính sách đổi mới, thị trấn quê tôi bắt đầu có sinh khí trở lại. Chẳng bao lâu sau, nơi đây buôn bán sầm uất. Cửa hàng tư nhân được mở ra tranh đua cùng với cửa hàng quốc doanh. Đời sống có phần dễ thở hơn. Sau trận chiến biên giới Việt Trung năm 1979, Dương Thái Lân và cả đơn vị công binh được điều động đến vùng thượng du Bắc Việt. Vì thế con Lu sống thoải mái với chúng tôi không còn lo lắng gì nữa. Đến tháng 7 năm 1991, gia đình tôi lên đường đi Mỹ theo diện tỵ nạn HO8.. Con Lu cũng vừa tròn 18 tuổi. Nó đã quá già chỉ lẩn quẩn trong nhà. Nhưng khi có khách đến là nó vẫn không quên chạy vào gầm giường. Ngày gia đình tôi vào Sài Gòn để lên máy bay, tôi cho Lu theo đến ga xe lửa cùng với bà con đưa tiễn. Khi còi tàu hụ từ xa, Lu đứng dậy sủa vang cả khu vực nhà ga. Trước khi lên tàu, mỗi người trong gia đình chúng tôi đều thay nhau ôm Lu vào lòng, rưng rưng, lưu luyến. Khi tiếng còi báo hiệu tàu chuyển bánh, con Lu nhìn đòan tàu rồi tru lên một tràng dài. Đây là tiếng tru lần đầu tiên trong cuộc đời 18 năm của nó. Tôi rùng mình. Tiếng tru thật áo não tưởng chừng như lời trối trăng vĩnh biệt của Lu nhắn gởi. Khi qua Mỹ rồi, chúng tôi được thư nhà cho biết, con Lu không chịu về nhà nữa. Nó lẩn quẩn ở khu vực nhà ga cho đến một ngày vào mùa Đông rét buốt, Lu nằm chết bên đường ray xe lửa, nơi mà chúng tôi đã ôm hôn nó trước khi bước lên tàu. Hay tin Lu chết, con tôi ôm nhau khóc. Nước mắt chảy ròng ròng như khóc thương một người thân đã ra đi vĩnh viễn. Riêng tôi thầm nghĩ : “Cũng may là nó đã quá già yếu, thân chỉ còn da bọc xương nên được chết toàn thây. Dù muốn dù không nhân viên nhà ga cũng phải chôn xác Lu ở một nơi nào đó trong lòng đất. Đất mãi mãi ấp ủ thân xác nó và ngàn vạn năm sau biết đâu bộ xương của Lu sẽ hóa thạch tồn tại mãi trên mảnh đất Việt Nam.” Tôi khóc âm thầm trong đêm như khóc cho đứa con của tôi còn để lại quê nhà nay không còn nữa. Suốt mấy đêm liền tôi nghĩ về Lu như nghĩ về một con người quả cảm và thủy chung. THEO CON THUYỀN NGƯỢC Cơn sốt hành hạ Trần Vũ đã một tháng liền. Những liều thuốc xuyên tâm liên, ký ninh nội địa không đủ độ triệt hạ họ hàng lũ vi trùng sốt rét độc địa đã bám trụ cả ngàn năm tại khu rừng già nầy. Nhìn khuôn mặt tóp rọp vì thiếu ăn thêm màu da vàng tái vì mất máu, không ai nhận ra chàng phi công lái chiến đấu cơ thuở nào.. Ngày vào tù, Trần Vũ vừa tròn hai mươi lăm tuổi, dáng người dong dỏng cao, khuôn mặt thanh tú. Cặp mắt to đen với hàng lông mi dài đậm khiến ánh mắt nhìn cuả Vũ quyến rũ lạ thường. Thời “oanh liệt”, không biết có bao nhiêu con tim nữ giới đã đắm đuối trong vòng tay chàng trai pilot hào hoa nầy? Khi ra khỏi bệnh xá, Vũ hoàn toàn kiệt sức. Ban giám thị trại sắp hắn vào toán làm việc nhẹ. Vì còn trẻ và nhanh nhẹn nên Vũ được điều đến giúp việc cho cán bộ Quản lý.. Buổi sáng đầu tuần, nhận lệnh của cán bộ trực ban, Vũ đến trình diện cán bộ Hạnh. Hắn lững thững đến khu nhà tập thể tìm chị quản lý. Vừa tới khu chứa thóc, Vũ chợt thấy một cô gái mặc áo trắng quần tây xanh với mái tóc đen dài xõa kín bờ vai rất “nữ sinh” cũng lững thững đi ngược chiều. Vũ gục đầu chào và lên tiếng hỏi: - Có phải tên cô là Hạnh không ạ ? Cô gái dừng chân, trừng mắt nhìn Vũ rồi nghiêm nghị hỏi lại : - Nội qui có cho phép Tù Cải Tạo gọi cán bộ bằng cô không nhỉ ? Vũ chưa kịp trả lời, chị tiếp : - Anh phải gọi tôi là cán bộ Hạnh. - Vâng ạ, báo cáo cán bộ, tôi tên Trần Vũ thuộc toán làm việc nhẹ được lệnh Ban Giám Thị điều lên kho phụ việc. Ánh mắt chị quản lý lướt nhanh trên tòan thân Vũ rồi với giọng chua chát : - Mất sức còn cho lên đây làm gì nhỉ ? Kho, đâu phải là chỗ dưỡng sức, các đồng chí trên ấy... Chị bỏ lửng câu nói rồi hất đầu về phía dãy nhà chứa thóc bảo : - Thôi được, anh vào đấy ngồi chờ, tôi đến làm việc với thủ trưởng một khắc, sẽ bố trí công tác cho anh sau. Chị quày quả bước chân về hướng khu nhà của Ban Giám Thị. Những căn nhà xây, mái ngói đỏ rực, đứng ngạo nghễ trên đỉnh đồi. Một công trình do sức lực, mồ hôi và nước mắt của tù dựng lên. Vũ thở dài ngao ngán Dãy nhà kho nằm lưng chừng đồi nối dài ba căn. Tất cả đồ tiếp liệu cho trên một ngàn tù nhân và cán bộ được chứa trong đó. Nửa giờ sau, cán bộ Hạnh trở lại, hất hàm bảo : - Tôi tạm thời dùng anh một tuần lễ. Nếu anh không đủ sức làm việc, tôi sẽ trả anh về trại. Vũ lặng thinh, bụng bảo dạ : “Nước sông công tù, nơi nào vẫn thế !” Chị quản lý vừa mở cửa kho vừa gọi : - Anh vào đây. Vũ bước theo. Mùi gạo mốc, cá khô, nước mắm xông lên nồng nặc. - Anh hốt hết gạo đổ trên nền kho, lượm sạch sạn, cứt chuột, xong dồn vào bao. Chị quản lý lệnh cho Vũ rồi chỉ tay về hướng góc nhà : - Đồ dùng ở đằng kia. Vũ lặng lẽ đến nơi chứa dụng cụ lấy cây chổi quét gom số gạo vung vãi vào một nơi. Chị Hạnh đưa cho hắn chiếc sàng và nia. Vũ xúc gạo vào sàng, hai tay đưa chiếc sàng qua lại. Đất bột, cát và những hạt tấm lọt qua các lỗ nhỏ, còn lại trên mặt sàng là gạo, sạn, lúa và cứt chuột trộn lẫn với nhau. Vũ cố nhớ ngày xưa mẹ hắn đã sàng bằng cách nào mà gạo nhóm vào giữa, sạn thóc nổi lên trên. Chị cán bộ xẵng lời : - Nhìn cách làm của anh đủ thấy cái thói ăn bám vào nhân dân, không chịu lao động. Vũ tức điên người trước thái độ xấc láo của con bé quản lý. Anh cố đè nén cơn giận đang bùng lên. Vũ muốn thét to vào mặt ả : - Nghề nghiệp của tao là lái máy bay, đâu phải nghề làm gạo hàng xáo ! Vũ được đào tạo tại Hoa Kỳ và đã thực hiện hàng trăm phi vụ với cả ngàn giờ bay. Mỗi lần máy bay cất cánh là Cộng quân “hồn xiêu phách lạc”, Anh luôn luôn mang về chiến thắng. Điều khiển một chiếc máy bay biết bao là động tác phức tạp. Tấm bảng điều hướng phi cụ chằng chịt những đồ thị, đối với anh chỉ là việc thường tình. Vậy mà cái công việc sàng gạo đối với Vũ lại khó khăn, nhiêu khê đến thế! Sàng gạo, một việc làm thường xuyên của mẹ. Với đôi tay mềm dẻo, mẹ nhẹ nhàng hất sàng lên, tay quay đều là gạo nhóm vào giữa, những hạt thóc nổi lên trên mặt sàng. Mẹ đã chọn những hạt gạo trên sàng dành cho anh mang ra tỉnh ăn học. Mẹ giữ lại phần gạo nát tấm mẳn cho suốt cuộc đời mình. Ngày Vũ trở về nước, mẹ không còn nữa. Người chưa kịp thấy mảnh bằng phi công của con trai mình. Cha Mẹ mất cả rồi. Người chị giờ lưu lạc phương trời nào. Vũ cảm thấy thương thân mình đơn độc, bỗng dưng nước mắt Vũ trào ra rơi trên sàng gạo. Anh giật mình, sợ cán bộ Hạnh trông thấy những giọt lệ, Vũ vội vàng lau mắt vào cánh tay áo. Chợt nhìn vào sàng gạo, Vũ ngạc nhiên thấy gạo trên sàng nhóm vào giữa chẳng khác gì sàng gạo của mẹ chàng ngày xưa. Thì ra, khi sàng gạo không nên chú ý quá vào đôi tay của mình, Vũ đã tìm ra nguyên tắc... Chị cán bộ đi đâu đó quay về, nhìn đôi tay Vũ quay đều có vẻ sành sỏi y thị gúc gắc đầu. Mồ hôi vã ra ướt đẫm cả lưng áo, Vũ đã gắng hết sức mình vượt thắng đôi tay rã rời để hoàn tất một công việc mà anh cho là của đàn bà con gái. Công việc nhẹ của nhà kho dành cho người mất sức trong buổi đầu như thế đấy ! Kẻng điểm giờ ăn trưa. Vũ báo cáo cán bộ về trại. Chị quản lý đưa cho chàng một trái chuối chín. Chuối, trước kia là món ăn tráng miệng hàng ngày, bây giờ là món “cao lương”. Qua bốn năm trong tù, lần đầu tiên Vũ mới ngửi được mùi chuối chín. Tay anh thọc vào túi áo vuốt ve vỏ chuối mịn màng, mát rượi. Vũ mân mê, trân quí nó như thuở còn bé mẹ đi chợ mua quà về cho con mà bé Vũ cố để dành thật lâu. Ăn xong chén sắn độn cơm, Vũ mới bắt đầu thưởng thức cái giây phút ngất ngây : “ăn chuối chín.” Cắn từng miếng nhỏ, nuốt thật chậm, Vũ sợ không cảm nhận hết chất ngọt ngào và hương vị thơm lừng của chuối. Nhìn cái vỏ chuối vàng rực, Vũ chợt nhớ đến bài viết về Tân Dưỡng Sinh của một tác giả người Nhật đã khuyên rằng : “Ăn rau thì dùng luôn cả rể, ăn trái cây đừng bỏ vỏ. Có như thế mới kết hợp được âm dương vốn luôn luôn cân bằng của thiên nhiên”. Một chén sắn trộn cơm đối với tù có thấm vào đâu. Nó chỉ làm kích thích thêm cái bao tử thèm ăn kinh niên. Và Vũ không đắn đo, nhai ngấu nghiến cái vỏ chuối còn đắng chát, rồi tự an ủi mình : “không bổ bề dọc cũng bổ bề ngang !” Trở lại nhà kho, Vũ ngạc nhiên thấy cán bộ Hạnh đã có mặt. Chị trao cho Vũ hai tập vở học trò đã cuốn góc, bảo anh rà soát lại phần xuất và nhập hàng tiếp liệu có ăn khớp với nhau không. Nhìn vào hai cuốn sổ, đầu Vũ lùng bùng trước sự ghi chép vô cùng cẩu thả, chứng tỏ nghiệp vụ của “con bé” còn rất lơ tơ mơ. Điểm đầu tiên được lòng cán bộ là anh đã phát hiện những nhầm lẫn sai biệt giữa phần xuất và nhập. Qua mấy ngày kế tiếp, Vũ đã bỏ ra rất nhiều thời gian để trình bày hai cuốn sổ điều hành mới có tính “chính quy” hơn. Mỗi trang đều có chung cột ghi ngày tháng, số lượng, tên loại hàng, chữ ký cuả người nhận, tên giới chức ra lệnh xuất v. v.. Khi hai cuốn sổ khổ lớn bìa cứng trình bày khá đẹp mắt hoàn tất, cán bộ Hạnh mới thật sự cảm phục óc sáng kiến và sự khéo tay củaVũ. Câu nói ví von của tù : “Làm nhà bếp đánh chết cũng no, gần nhà kho có lo gì đói”, giờ đây Vũ mới nhận chân được ý nghĩa của nó. Thân thể của Vũ có phần đầy đặn và da dẻ hồng hào nhờ những phần ăn từ nhà bếp do cán bộ Hạnh mang cho cùng với trứng vịt, chuối, đường bồi duỡng hàng ngày. Vào ngày cuối tháng, Vũ ngồi liệt kê các loại thực phẩm đã xuất ra. Bàn bên cạnh, cán bộ Hạnh lo phần báo cáo số hàng tồn kho. Bất chợt nàng gọi: - Anh Vũ ! Vũ ngửng đầu chờ đợi. - Tôi muốn hỏi anh một điều. Nàng ngập ngừng…, nhưng phải trả lời thẳng thắn kia. Vũ gật đầu. - Anh còn nhớ ngày đầu tiên lúc sàng gạo anh đã khóc. Tôi ngại ngùng bỏ ra ngoài. Có phải vì câu nói của tôi đã làm anh tủi thân ? - Tôi bực mình thì đúng hơn. Vũ nhìn vào mắt chị cán bộ, trung thực tiếp, nhưng đó không phải là nguyên nhân đâu. - Vậy, vì lý do nào ? - Thuở bé, khi mẹ tôi sàng gạo, tôi thường ngồi bên chờ lượm những hạt thóc trên sàng. Đôi tay mẹ quây sàng thuần thục như ngày nay tôi điều khiển phi cơ. Những thao tác nghề nghiệp trở thành phản xạ tự nhiên. Tôi ngồi sàng gạo mà nghĩ đến mẹ. Ngày xưa Người không bao giờ tưởng tượng sẽ có ngày con trai mình phải cặm cụi làm cái công việc tầm thường này, bỗng nhiên tôi nhớ mẹ xót xa. Mẹ tôi góa bụa từ lúc còn thanh xuân, thủ tiết thờ chồng, nuôi con. Ngày tôi giã từ mẹ lên đường sang Mỹ theo học lái máy bay, miệng mẹ nở nụ cười mà nước mắt Người đầm đìa trên khuôn mặt nhăn nheo. Mẹ vừa mừng, vừa thương đứa con trai đã hai mươi năm chưa lần nào xa mẹ. Người dặn dò tôi phải giữ gìn sức khoẻ, cố gắng học tập để mang mảnh bằng phi công về cho mẹ hãnh diện. Nhưng ngày về, mẹ tôi đã lìa đời. Mẹ mất vì bạo bệnh mà người chị đã cố ý giấu tôi. - Chị anh bây giờ ở đâu ? Hạnh tò mò hỏi. - Bặt tin từ sau ngày 30 tháng 4. Vũ lặng lẽ tiếp tục làm việc. Hạnh buông tiếng thở dài: - Anh lái loại máy bay nào ? - F5E . - Có phải máy bay cánh cụp cánh xoè ? - Không, đây chỉ là loại khu trục chiến đấu dội bom và tác xạ. - Nghe nói các nữ sinh Miền Nam mê mấy ông giặc lái lắm phải không? Hạnh hỏi Vũ với giọng giè bỉu.. Danh từ giặc lái khiến cho Vũ khó chịu. Anh cúi đầu làm việc, giả vờ không nghe. Cán bộ Hạnh không có nét đẹp quý phái nhưng khá duyên dáng, mặn mà. Một thân hình đầy đặn, cân đối thêm màu da sáng khoẻ mạnh, thể hiện một mẫu người nghị lực và xốc vác. Khuôn mặt trái soan, với đôi hàm răng trắng đều, khiến cho nụ cười của nàng toát lên tính hồn nhiên đầy quyến rũ. Vũ đến giúp việc cho cán bộ quản lý mới đó mà đã hơn ba tháng rồi. Khác với ngày đầu tiên khi anh đến trình diện nhận việc, tính đanh đá, chua ngoa, đốp chát ở cán bộ Hạnh gần như biến mất mà thay vào đó là tính điềm đạm, lời nói trở nên dịu dàng lịch sự. Thái độ dằn mặt làm Vũ hụt hẫng trong buổi đầu dường như Hạnh đã cảm thấy mình vụng về. Dẫu biết địa vị mình là một “cán bộ cách mạng” và bên kia là tù cải tạo, nhiều lúc Hạnh lại thấy lúng túng khi xưng hô xẵng xớm với Vũ. Mỗi lần tiếp xúc với chàng, nàng không giữ được bản lãnh của một cán bộ quyền uy.. Có một chút gì len lỏi trong nàng như tình cảm giữa hai người khác phái. Tính hồn nhiên trong Hạnh dần dà bộc lộ không gìn giữ như những ngày đầu đối với chàng. Từ những câu hỏi vụn vặt cách riêng “con gái”, cung cách xưng hô, sai bảo đã khiến Vũ cảm nhận có cái gì khang khác nơi người cán bộ quản lý. Những ngày có Vũ, nhà kho trở nên ngăn nắp, sạch sẽ. Cán bộ Hạnh tiến bộ nhiều về mặt nghiệp vụ. Đặc biệt hơn cả là nàng đã bỏ cách nói năng kiểu “loài vẹt”, trở nên ngọt ngào và trí thức hơn. Sau nầy, Vũ còn phát hiện bản chất hiền hoà và thương người của Hạnh. Có lần nàng tâm sự : - Tôi không chịu nổi cái cảnh tù cải tạo đói phải ăn cả cào cào, châu chấu. Anh biết không, Hạnh nhìn Vũ rồi hạ thấp giọng : - Gia đình ông nội của Hạnh theo đạo Thiên Chúa, bố theo cách mạng bỏ đạo. Lần đầu tiên vào miền Nam, điều làm cho tôi ngạc nhiên nhất là nhà thờ nào cũng đồ sộ, còn ngoài Bắc thì tàn tạ. Ngừng một lúc, nàng đột ngột hỏi : - Tại sao cấp trung học ở miền nam lại phải học tới mười hai năm ? Vũ không trả lời trực tiếp câu hỏi mà chỉ nở nụ cười kiêu hãnh : - Vì lẽ đó mà trình độ của học sinh tốt nghiệp Trung học giữa hai miền cách nhau một trời một vực. Hạnh đồng ý với nhận xét của chàng và thú thật : - Ngày giải phóng miền Nam, tôi đang theo ngành Quản lý Xí Nghiệp tại Trường Đại Học Tổng Hợp Hà Nội. Khi tốt nghiệp ra trường họ xét lí lịch đưa tôi vào đây coi như trong giai đoạn thực tập. Qua nhiều lần tiếp xúc, gặp gỡ với các anh chị ở trong nầy tôi mới thấy mình còn rất non kém. Hạnh nói một hơi dài như ngại không có cơ hội bày tỏ một tâm sự thầm kín. Vũ lặng im nhưng rất ngỡ ngàng và lòng đầy xúc động. “Con bé” đã nói thật lòng mình. Rất hiếm những tên cán bôï cộng sản lại bày tỏ lai lịch mình cho tù nhân nghe. Hình như tâm hồn trong sáng của một nữ sinh chưa bị tập nhiễm lề thói dối mình dối người. Vũ đưa ánh mắt nhìn Hạnh với lòng mến phục và thoáng chút biết ơn. Nàng bắt gặp ánh mắt đó và đáp lại chàng bằng nụ cười đầy cảm thông và trìu mến. Vũ đang sắp xếp lại số hàng mới nhập, chợt có tiếng gọi : - Vũ à. Ngẫng đầu lên Vũ hỏi : - Cán bộ gọi tôi ? Hạnh tiến về phía Vũ, thân mật bảo : - Từ nay anh đừng dùng từ “cán bộ” với Hạnh nữa nhé. Vũ đắn đo hỏi : - Thế phải gọi bằng gì đây ? - Bằng tên. Câu trả lời của Hạnh gọn và chắc là sự giải nghĩa trọn vẹn lý lẽ con tim. Vũ hiểu được nhưng không ngờ nó xoay chuyển mau lẹ như vậy. Sự cảm thông giữa hai người trẻ tuổi đến rất nhanh và chân tình như muốn vượt qua bức tường ngăn cách Thù và Địch. Hình như dòng máu bác ái của ông bà nội theo chân Chúa còn tiềm ẩn trong huyết hệ người cháu gái sinh ra bất phùng thời nầy. Từ sáng sớm, cán bộ quản lý nhận thêm một số tiếp liệu gồm gạo, mắm, bột ngọt và áo quần tù. Hạnh và Vũ phải làm tất bật cả ngày. Thời tiết chuyển mùa, khí trời oi bức, ngột ngạt. Cây rừng đứng chết lặng trước sức ép của bầu khí quyển nặng nề. Rồi mây đen kéo về che kín cả bầu trời. Gió thổi. Sấm sét. Trận mưa đầu mùa trút xuống mờ mịt cả núi đồi. Mưa đổ trên mái ngói, mưa nổi bong bóng ngoài sân. “ Nước ! nước !”, Nước dột từ trên nóc nhà chảy xuống kho, Hạnh vừa hốt hoảng kêu lên vừa vội vã lấy vải nhựa đi mưa phủ lên đống hàng mới nhập. Vũ phát hiện một viên ngói trên nóc nhà bị bể. Anh nhanh chân bắc thang trèo lên mái nhà thay viên ngói lành . Mưa mỗi lúc mỗi đậm lại thêm sấm sét, gió to. Năm phút rồi mười phút Vũ vẫn chưa làm xong. Hạnh cuống cuồng lo cho Vũ, nàng chạy ào ra mưa gọi chàng. Đúng lúcVũ vừa thay xong viên ngói, tuột khỏi mái nhà. Cả người Vũ sũng nước, lưng áo bị rách toạc một đường dài. Hạnh bảo Vũ vào trong nhà thay bộ đồ khác. Anh chần chừ, định chạy về trại, nhưng Hạnh nói như ra lệnh: “Vào đi !.” Nàng đẩy Vũ vào trong rồi đóng cửa lại để tránh những cơn gió thốc. Hạnh lấy bộ áo quần tù mới nhập đưa cho Vũ. Anh đứng yên, ngần ngại. Nàng năn nỉ : - Anh nghe lời em, đừng để nước mưa đầu mùa thấm vào người, vi trùng sốt rét sẽ hành hạ anh trở lại. Vũ thật sự ngỡ ngàng đến độ bàng hoàng khi nghe Hạnh xưng em với mình. Vũ một mực đòi về trại thay áo dù cơn lạnh đã làm cho môi chàng thâm tím và hai hàm răng đánh vào nhau không còn kìm giữ được. Hạnh xốc tới tự động cởi nút áo cho Vũ. Bộ ngực nở nang đầy nam tính hiện ra, bất giác Hạnh áp mặt vào ngực chàng khóc nức nở. Lòng chùng xuống, Vũ đưa tay vuốt mái tóc ướt đẫm nước mưa của nàng. Hạnh ngẩng đầu lên với ánh mắt dỗi hờn : - Anh bướng bỉnh quá làm cho em đau khổ ! Trời tạnh mưa. Vũ xin Hạnh về trại trước nửa giờ. Chàng không muốn ở đó lâu hơn. Hạnh có tình ý với chàng, Vũ cảm thấy lo âu, rồi sẽ xảy ra những bất trắc mà nàng không thể lường trước được. Bạo lực sẽ bóp nát trái tim nàng. Người ta sẽ không để cho trái tim cán bộ cách mạng có cùng chung một nhịp đập yêu đương với trái tim của người tù. Những ngày sau đó, Vũ thố lộ những cảm nghĩ của chàng và yêu cầu nàng trả chàng về đội. Hạnh buồn bã trả lời: - Anh nhát gan quá. Hạnh mới là người chủ động. Em không để phiền lụy đến anh. Lễ Lao động kết hợp với ngày kỷ niệm 30 tháng 4, cả Ban giám thị được lệnh về thành phố nhận khen thưởng. Tù nhân được nghỉ một buổi. Đang sửa lại vạc giường nằm, Vũ có lệnh lên văn phòng quản lý gặp cán bộ Hạnh. - Chào cán bộ. - Em van anh mà! Hạnh vừa vén mái tóc qua một bên vừa buông lời trách móc. Đâu phải là lúc để cẩn trọng như thế. Vũ cười, giả lả hỏi : - Hạnh không về thành phố à ? - Các đồng chí ấy có công trạng. Em đâu được cái danh dự đó. Hạnh nhoẻn miệng cười nhìn Vũ : - Hôm nay ngày lễ, cán bộ được bồi dưỡng, em đem ít thịt heo và xôi để anh ăn tối. Nàng vừa nói vừa đứng lên cầm gói thức ăn trao cho Vũ. Anh nhận gói giấy từ tay Hạnh, nói đùa : - Vậy là cán bộ hối lộ cho tù nhân đấy nhé. - Ừ, thế đấy! Hạnh nhìn Vũ thách thức, rồi choàng tay ôm cổ chàng, thỏ thẻ: - Chỉ là món quà hối lộ nhỏ nhoi đầu tiên cho anh. Hạnh lại ôm chầm lấy Vũ, ép đôi vú căng đầy vào ngực chàng khiến máu trong người Vũ chạy rần rật, nóng bừng trong từng tế bào trương cứng. Cảnh vắng lặng của văn phòng kho như đồng lõa cơn dục tình quật ngã ý chí chàng. Vũ nâng đầu Hạnh hôn vào môi, đôi môi dày đầy dục tính. Lưỡi chàng quyện lấy lưỡi nàng. Hạnh run lên, toàn thân như tê dại. Gió đánh bật cánh cửa văn phòng khép lại, tạo điều kiện thuận lợi cho hai người. Hạnh nằm xuống kéo Vũ theo. Nàng nhanh tay lột hết áo quần phơi bộ ngực trắng ngần vun cao. Không kìm chế nổi, Vũ đặt môi vào núm vú son hồng đó. Hạnh trân người, siết Vũ vào lòng. Đã trên bốn năm vắng bóng đàn bà, tất cả sinh lực tích tụ dồn vào trong đó. Nàng ưỡn người lên, bấu vào lưng Vũ. Anh chủ động dìu nàng qua những cơn sóng ngầm cho đến khi oà vỡ. Ánh mắt Hạnh đắm đuối nhìn Vũ với gương mặt tràn đầy hạnh phúc. Sau lần ân ái đầu tiên, Hạnh thường tạo điều kiện thuận lợi cho hai người gặp nhau. Càng ngày nàng càng gắn bó với Vũ hơn. Có lần Hạnh thủ thỉ với chàng : - Em muốn có con với anh. - Hạnh sẽ không đạt được ý nguyện đó đâu. Vừa trả lời, Vũ vừa xoa nhẹ bàn tay nàng, lo ngại tiếp : - Nếu Hạnh bảo vệ được đứa bé thì sau nầy, nó sẽ mồ côi cha, tội nghiệp. Nàng xoay người lại, ôm cổ Vũ hỏi : - Câu nói của anh có ý gì vậy ? - Vũ vén những sợi tóc mai loà xoà trên mặt nàng rồi điềm tĩnh trả lời : - Họ sẽ giết anh ! Hạnh thở dài trước sự thực phũ phàng mà nàng chưa hề nghĩ tới. * * * - Em đi công tác bảy ngày. Hạnh báo cho Vũ và dặn dò thêm : - Anh vẫn làm việc tại kho với cán bộ Toả, ngày mai em lên đường, anh ghi những vật dụng cần dùng để em mua cho. - Cám ơn Hạnh, đời sống tù quen rồi, tôi chẳng cần gì đâu, Vũ thẳng thắn trả lời. Ngày hôm sau, Toả đến kho. Hắn coi sơ qua hai sổ xuất nhập hàng tiếp liệu. Hắn luôn giữ khoảng cách giữa hai người. Toả là cán bộ chỉ huy đơn vị võ trang, tạm thời thay Hạnh, vì vậy phần ghi chép đều nhờ tay Vũ.. Tỏa không nghiêm khắc mà cũng không thân thiện. Hình như hắn muốn truy tìm cái gì đó nên hay lục lọi trong tủ hồ sơ của Hạnh. Buổi chiều, chị cán bộ nuôi quân đến lãnh gạo hàng ngày.Tỏa sai Vũ mang gạo xuống nhà bếp. Chị nuôi nhìn Vũ rồi nói với Toả: - Người ta đồn “ Có kẻ chê thuốc Bắc khoái thuốc Nam cũng có lý đấy chứ !.” Cả hai cùng cười. Cán bộ Hạnh đi công tác về sớm hai ngày. Chiều thứ Hai nàng trở lại làm việc. Vũ vừa bước vào phòng, Hạnh vội kéo anh vào góc nhà ôm hôn cuồng nhiệt. Vũ đẩy nàng ra xa vì sợ có người vào bất chợt. Hạnh thì thầm: - Em nhớ anh, nhớ điên người! Nàng bồng bột tiếp : - Từ nay em bất chấp tất cả. Mấy ngày qua gặp Hoàng, em đã trả lời dứt khoát với anh ta rồi. - Có vấn đề gì thế ? Vũ ngạc nhiên hỏi. - Em hủy bỏ lời hứa hôn. Hạnh thẳng thắn trả lời. Vũ sững sờ. Chẳng biết điều gì đã xảy ra cho Hạnh. Tên Hoàng là ai. Tại sao từ hôn? Chờ nàng bình tĩnh,Vũ yêu cầu Hạnh giải thích. Hai tay chống cằm, mắt nhìn về hướng hàng cây bạch đàn chạy dài theo con đường đất đỏ ngậïp ánh nắng chói chang, Hạnh tâm sư : - Trước đây, anh đã từng trông thấy một người đàn ông thường đến với Hạnh vào những ngày lễ hoặc cuối tuần. Đó là Thiếu tá Hoàng, người dự tính sang năm cưới em. Hoàng hiện giờ là Trưởng Phòng Hình Sự Ty Công An. Chuyến công tác vừa rồi em đã gặp anh ấy và nói rõ quyết định của em. - Ông ta đã nói gì với Hạnh ? Vũ thận trọng hỏi. - Anh ấy bảo : “Quyết định đó là đồng chí tự hủy hoại sự nghiệp của mình” Việc xảy ra quá bất ngờ khiếnVũ vô cùng băn khoăn và lo lắng. Chúng sẽ theo dõi, điều tra tìm hiểu nguyên nhân nào khiến cho Hạnh thay đổi tình cảm. Hạnh ngây thơ và nông nổi. Nàng sống cho mình, theo tiếng gọi trái tim mà quên đi những thủ đọan tàn độc. Vũ thở dài, rồi nhẹ nhàng trách : - Hạnh cần phải đắn đo trước khi quyết định một việc làm có ảnh hưởng đến cả cuộc đời mình. Hạnh có biết việc từ hôn đó sẽ mang đến một hậu quả vô cùng tai hại không? - Biết chứ, nhưng lấy Hoàng em sẽ không có hạnh phúc. - Hạnh mạo hiểm quá và cả Vũ nầy cũng thế ! Ngày mai Hạnh trả tôi về lại đội, trả gấp. Tôi không muốn thấy sau nầy Hạnh phải chịu khổ đau và ân hận. Tôi cũng tránh được ngón đòn thù giáng trả. Kẻng cơm chiều cũng vừa điểm, chàng vội vã về trại. Nàng nhìn theo Vũ với ánh mắt cảm thông. Sáng hôm sau, chờ các đội xuất trại xong, Vũ mới báo cáo cán bộ gác cổng lên kho. Hạnh đang sắp xếp lại giấy tờ với đôi mắt đăm chiêu. Hình như có vấn đề gì rắc rối, trông gương mặt của nàng phờ phạc hẳn đi. Vũ lấy sổ ghi chép báo cho Hạnh biết số lượng thực phẩm mà cán bộ Tỏa đã xuất mấy ngày nàng đi công tác. Hạnh vừa đến bên Vũ, bất ngờ hai công an xông vào phòng la lên : “Mày làm gì cán bộ Hạnh đấy ?” Cán bộ quản giáo bảo vệ chính trị đứng bên ngoài cửa văn phòng Quản lý ra lệnh còng tay Vũ trước cặp mắt ngơ ngác của Hạnh. Họ đẩy Vũ ra khỏi cửa tiến thẳng đến khu kỷ luật. Sau khi cùm hai chân Vũ, một người trừng mắt bảo: “Mầy cả gan thật, dám cuỡng hiếp cả cán bộ”. Vũ đặt lưng xuống mặt sàn, hai cổ chân đau nhói. Chàng thở dài: “õĐiều mình tiên đoán đã đến rồi!” Mỗi ngày, Vũ bị áp giải lên phòng trực hỏi cung và viết kiểm điểm. Chủ tâm của họ là gán ghép cho anh tội cưỡng hiếp Hạnh. Hai ngày, rồi một tuần, Vũ cương quyết không chịu nhận tội. Đến ngày thứ tám quản giáo hỏi cung bảo: - Cán bộ Hạnh gởi đơn tố cáo anh đã cưỡng hiếp đồng chí ấy và có kèm theo vật chứng. Anh nên khai báo sự thật và sớm nhận tội. Nếu ương ngạnh, chúng tôi sẽ chuyển nội vụ qua hình sự. Chừng đó, anh sẽ ngồi tù đến mọt gông. Hắn ngừng nói, đưa cho Vũ điếu thuốc, chàng từ chối. Hắn tiếp : - Anh khai rõ tình cảm của anh đối với cán bộ Hạnh kể cả quà cáp mà cán bộ Hạnh đã cho anh. Hắn châm lửa điếu thuốc, hít một hơi dài : - Như anh thấy đó, Đảng và Nhà nước ta chủ trương giáo dục chứ không trừng trị. Tội giặc lái của anh đã giết hại biết bao dân lành vô tội, làng quê bị tàn phá tiêu điều, đổ nát là do bom đạn của anh trút xuống. Thế mà cách mạng vẫn khoan hồng, tha tội chết, lại còn nuôi duỡng bảo vệ các anh khỏi sự trả thù cuả nhân dân. Một lần nữa, tôi lưu ý anh, đây là lần viết kiểm điểm cuối cùng, nếu không thành khẩn, buộc chúng tôi phải đưa anh ra trước tòa án nhân dân. Vũ nhủ thầm : “ Đây là thủ đọan họ cố hại mình.” rồi lặng lẽ viết và ký tên vào tờ tự kiểm. Đọc bản tự kiểm Vũ vừa trao, cán bộ đập bàn quát : - Mầy cứng đầu thật. Đã mấy chục tờ rồi mà tờ nào cũng chừng ấy lời khai. Mầy không phạm tội gì à, còn đồng lõa với “tên hủ hóa” đó nữa hả? Đôi mắt hực lửa, hắn nhìn Vũ rồi ra lệnh đưa anh vào phòng kiên giam, cắt thêm tiêu chuẩn phần ăn tối đa để trừng phạt. Ba ngày yên ổn, Vũ không bị đưa đi hỏi cung. Những cơn đói hành hạ anh mấy ngày qua, giờ đã trở lại bình thường, bao tử bớt phần đau rát. Vũ nghĩ đến Hạnh, không biết tình trạng của nàng hiện giờ ra sao. Chắc chắn là lũ chúng nó quần thảo dữ lắm. Chẳng thế mà tên quản giáo đã miệt thị nàng là “tên hủ hóa” trước mặt anh. Tiếng mở khóa lách cách, Vũ giật mình nhìn ra cửa, ánh đèn pin chiếu thẳng vào mặt. Hai bóng đen tiến vào phòng : - Ngồi dậy ! Một người ra lệnh, người kia mở cùm chân. Cả hai xốc vai Vũ đẩy ra khỏi cửa hầm kỷ luật. Họ đưa vào một căn phòng lạ, ấn anh ngồi xuống ghế. Ánh sáng bóng điện tròn tỏa màu vàng vọt trong căn phòng xông mùi ẩm mốc. Một người đàn ông trung niên mặc áo quần đại cán màu xanh rêu bước vào và ra hiệu cho lính bảo vệ mở khóa cùm tay Vũ. Người cán bộ có dáng cao gầy, mặt vuông. Phần quai hàm bạnh ra trông khắc khổ . Nhờ đôi gương cận thị gọng vàng giúp cho khuôn mặt ông ta cân đối phần nào và có vẻ trí thức. Hắn nhếch mép cười gượng gạo, rồi một giọng nói sắc, khô của người xứ Nghệ : - Tôi là Thanh Hoàng, cán bộ Công an hình sự. Cấp trên có nhận được đơn tố cáo của đồng chí Quản lý Đỗ thị Hồng Hạnh về việc anh đã cưỡng dâm đương sự. Hôm nay tôi cần làm việc với anh một số vấn đề. Nhưng trước hết hãy xác nhận tên anh có phải là Trần Vũ không? - Vâng, tên tôi là Trần Vũ. -Anh làm những công việc gì ở kho ? - Làm theo lệnh của cán bộ Quản lý.. - Mà lệnh đó thường là công việc gì ? - Quét dọn, khuân vác hàng tiếp liệu, giúp làm sổ sách cho cán bộ Hạnh. - Láo, anh là tù nhân, ai cho phép anh làm sổ sách. Anh biết cóc gì về kế toán mà lo chuyện sổ sách. Vũ ngước mắt nhìn ông ta. Ông ta trừng mắt nhìn lại Vũ trấn áp, rồi hỏi tiếp: - Thời gian ở kho, cán bộ Hạnh có cho anh quà cáp gì không? - Không. Anh thành khẩn đi, cán bộ Hạnh đã báo cáo cho cấp trên đầy đủ rồi. Im lặng…….. . Công an Hoàng tiếp : - Ngày 25 tháng 5 năm 1979 anh đã cưỡng bức và xâm phạm tiết hạnh cán bộ Đỗ thị Hồng Hạnh? - Không, không bao giờ, Vũ xác định. - Láo, láo ! Hắn đập bàn hét lên giận dữ. Đây là bản chất của lính ngụy. Trước đây, các anh đã cưỡng hiếp biết bao đàn bà con gái trong các trận càn. Chứng nào tật nấy. Đã cải tạo trên bốn năm mà chưa bỏ được thú tính. Có cả vật chứng và người chứng, anh làm sao chối cãi. Hãy thật thà khai đúng, chúng tôi sẽ đề nghị cấp trên ân giảm, anh mới hy vọng có ngày đoàn tụ với gia đình. Vũ im lặng, nghĩ ngợi: “Họ muốn đánh gục mình.” Trước sự lặng thinh khá lâu, tưởng Vũ đã bị khuất phục, cán bộ Hoàng mỉm cười, với giọng đầy kịch tính, bảo: - Như thế là tốt đấy, anh chỉ cần viết vào đây một câu thôi. Hắn chìa cây viết và trang giấy cho Vũ rồi đọc : “Tôi xin nhận đã có hành động sai trái với cán bộ Quản lý trong ngày 25 tháng 5 năm1979.” Ngưng một chốc, hắn bồi thêm lời khuyến dụ : - Chừng ấy cũng đủ chứng minh anh đã ăn năn hối lỗi. Vũ điềm tỉnh cầm viết ghi : “ Tôi Trần Vũ không hề có một hành động nào mang tính cách cưỡng hiếp cán bộ Đỗ Thị Hồng Hạnh trong ngày 25 tháng 5 năm1979.” Cán bộ Hoàng nhìn vào tờ khai cung, đôi môi đang cười gượng gạo, chợt khuôn mặt đanh lại. Hàm răng cắn chặt vào nhau khiến cho quai hàm của y đã bạnh lại càng bạnh hơn, nom như đầu loài rắn mang gương xứ Ấn Độ. Hắn đứng dậy chồm qua bàn, một tay nắm bâu áo của Vũ, tay kia đấm tới tấp vào mặt Vũ. Hắn vừa đấm vừa hét lên: “Khốn nạn, đểu cáng”. Máu từ mũi Vũ phụt ra văng tung tóe, đỏ cả xấp hồ sơ. Thuận đà, y kéo Vũ về phía mình. Cạnh sắc của chiếc bàn chấn ngang bụng, Vũ cong người lại vì đau đớn rồi ngất xỉu trên bàn. Cán bộ Hoàng bỏ giấy tờ vào túi dết, gọi lính bảo vệ áp giải Vũ về lại hầm kỷ luật. * * * Tin Trần Vũ giúp việc trên kho đã cưỡng hiếp nữ cán bộ Quản lý gây xôn xao trong toàn trại. Đề tài nầy được xem là nóng hổi mấy ngày qua. Sau buổi cơm chiều, anh em tù thường tản bộ trên sân hội trường chuyền miệng cho nhau những mẫu chuyện vừa nghe lóm được. Một bạn nhận xét : - Quả là một việc làm tầy trời, chỉ nghe thoáng qua cũng đủ xanh máu mặt, nổi da gà. Thế mà thằng Vũ dám “rờ dái ngựa !” Phần lớn tù nhân đều chê trách Vũ, nào là : “ăn no bò cỡi, được voi đòi tiên”. Những bạn gần gũi thì tỏ ra không tin, bởi họ hiểu Vũ là người có tư cách và giàu ý chí. “Biết đâu, vì gần gũi lâu ngày nên hai người ghiền nhau, nhất là Trần Vũ vừa đẹp trai, lịch sự vừa có nghệ thuật đắc nhân tâm thuộc loại siêu đẳng”. Anh đội trưởng rau xanh nhận xét, rồi ghé tai anh bạn bên cạnh hỏi: - Đằng ấy có nghe mấy cha cán bộ đùa cợt với nhau câu: “Thuốc bắc không chịu uống, lại đi ghiền thuốc nam!” trong mấy ngày qua không ? Một bạn tù thuộc đội chăn nuôi đột ngột đến báo : - Thằng Vũ bị bắt tại trận khi có tiếng kêu cứu của chị Quản lý và tịch thu được bộ áo quần của nó. Người đứng bên cạnh bổ túc thêm : - Tên trật tự đem cơm vào nhà cùm, tiết lộ rằng Vũ bị cán bộ Hạnh đánh vào mặt để thoát thân, mặt mày hắn còn sưng vù. Một bạn tù cao niên tỏ ra am tường luật pháp phát biểu : - Phàm“ bắt dâm bôn lấy l... làm chứng” là áp dụng cho tội ngoại tình kia. Tội hiếp dâm chỉ cần nạn nhân tố cáo là đủ rồi, đằng nầy còn tịch thu được cái quần là thừa tang chứng kết tội rồi. Một bạn trẻ xen vào : - Ăn vụng mà còn ham cởi cả áo thì bị bắt là đúng thôi. Cả bọn cười ồ ! Ông bạn già với giọng từng trải tiếp : - Án cải tạo của thằng Vũ nhiều lắm sáu năm, bây giờ vướng vào án hình sự nầy e ngày ra tù của nó ắc phải chống gậy ! Sáng Thứ Bảy, tù nhân cơm nước xong đợi giờ lên đường lao động. Bỗng có lệnh trên ban xuống : “Tất cả nghỉ làm ngày hôm nay, chuẩn bị lên hội trường.”
-“Lại có chuyện gì đây ?” Mọi người xôn xao. Mười lăm phút sau, tiếng kẻng gióng lên. Tù nhân hồi họp kéo đến hội trường. Cán bộ quản giáo, cán bộ vũ trang, các chị nuôi đều có mặt. Trên sân khấu được đặt ba chiếc bàn theo hình chữ U. Một tốp người vận đồng phục công an tiến vào hội trường, rồi lần lượt ngồi vào ghế đã được phân định trước. Bàn giữa gồm có: Giám thị trưởng, Thiếu tá công an Thanh Hoàng, và một người được giới thiệu là cán bộ phòng Kiểm Sát Nhân Dân của huyện. Hai Phó Giám Thị và một thư ký ngồi bàn cánh trái. Bàn bên phải bỏ trống. Thiếu Tá Thanh Hoàng mở đầu cuộc họp bằng giọng nói đầy uy quyền : - Ty Công An nhận được bản tường trình của Ban giám thị trại về vụ cưỡng dâm đã xảy ra tại văn phòng quản lý trong ngày 25 tháng 5 năm 1979. Can phạm là cải tạo viên Trần Vũ, nghề nghiệp : Trung uý lái máy bay của ngụy quyền Sài Gòn. Nạn nhân là cán bộ Quản lý Đỗ Thị Hồng Hạnh. Đây là cuộc họp xét tội công khai trong nội bộ để lấy đầy đủ lý chứng chuyển qua Viện Kiểm Sát Nhân Dân Tỉnh. Dù có bằng chứng rõ ràng, tên Trần Vũ vẫn ngoan cố không chịu nhận tội. Để chứng tỏ công tác thi hành luật pháp của Nhà Nước là vô tư và đúng đắn, hôm nay chúng tôi cho nạn nhân, đồng chí Đỗ Thị Hồng Hạnh đến đây đối chất trực tiếp với can phạm Trần Vũ và trưng dẫn vật chứng để chúng tôi đúc kết hồ sơ truy tố can phạm ra trước Tòa Án Nhân Dân. Trước tiên, yêu cầu các đồng chí vũ trang áp giải phạm tù Trần Vũ ra trước Chủ Tọa Đoàn. Yêu cầu đồng chí Hạnh vào bàn bên phải. Tiếng rì rào nổi lên khi Trần Vũ xuất hiện giữa hội trường. Với bộ áo quần tù màu xám tro còn mới, trước ngực dính lấm tấm những vệt máu khô, Vũ bước đi xiêu vẹo, khó khăn bởi dây xích chân quá ngắn. Khuôn mặt Vũ bị biến dạng do những vết sưng bầm. Cùng lúc, cán bộ quản lý Hồng Hạnh cũng bước vào ngồi trên ghế đã chỉ định, với khuôn mặt bơ phờ, tư lự. Mở đầu buổi tố khổ, cán bộ thư ký đọc bản tường trình nội vụ gồm có những điểm chính sau: “Ngày 25 tháng 5 năm 1979, lúc 8 giờ sáng, tù cải tạo Trần Vũ bị bắt tại văn phòng quản lý về tội cưỡng dâm nữ cán bộ Đỗ Thị Hồng Hạnh. Tang chứng thứ nhất là bộ áo quần cuả can phạm bị tịch thu tại phạm trường. Tang chứng thứ hai là vết bầm trên mặt Trần Vũ là do nữ nạn nhân đánh để thoát thân. Thứ ba là chứng từ trong lời khai của Trần Vũ đã thú nhận có cảm tình với cán bộ Hạnh.” Bản tường trình kết thúc với ý kiến đề nghị: “Yêu cầu cấp trên làm sáng tỏ nội vụ để trừng phạt đích đáng kẻ phạm pháp hầu ngăn chận hành vi tương tự của kẻ khác.” Công an Hoàng với tư cách là người trách nhiệm điều tra vụ án phát biểu : - Sau đây là phần xác minh của nạn nhân Đỗ Thị Hồng Hạnh. Lời khẳng định nầy là dữ kiện chính yếu để truy tố đương sự. Yêu cầu đồng chí Hạnh đứng lên. Với thái độ điềm tĩnh, cán bộ Hạnh nói : - Tôi xét thấy sẽ vấp phải sai lầm lớn lao nếu không đứng ra tố cáo kẻ phạm pháp. Tôi đoán biết thế nào Trần Vũ cũng sẽ không nhận tội. Điều đó không quan trọng mà quan trọng là điều xác minh của chính tôi. Nhưng trước tiên tôi yêu cầu Trần Vũ hãy trung thực trả lời câu hỏi của tôi: - Anh có công nhận vết sưng bầm trên mặt anh là do tôi đánh? Không thành khẩn, anh là kẻ yếu hèn. - Đồng chí Hạnh không cần phải nhiều lời, nên đi thẳng vào vấn đề, cán bộ Hoàng chận lại. Hạnh tiếp : - Tôi muốn chứng tỏ cho mọi người thấy bản chất của con người mang tên Trần Vũ, một tù cải tạo, có đủ nghị lực nhận tội hay không. Bỗng, từ dưới chân khán đài, Vũ la lớn : -Tôi xác nhận là không đúng!Vết thương trên mặt tôi là do cán bộ điều tra gây ra. Công an Hoàng quắc mắt nhìn Vũ rồi nhìn Hạnh. Chị Quản lý quay mặt về phía bàn chủ tọa, tiếp : - Được, bây giờ tôi đề cập đến vật chứng.. Hạnh vừa nói vừa cầm bộ đồ tù đặt trên bàn đưa ra trước mặt hỏi : - Trần Vũ hãy xác nhận bộ áo quần nầy của ai ? Trần Vũ lớn tiếng trả lời : - Của tôi. Hoàng lên tiếng : - Tôi xét thấy lời xác nhận của can phạm về vật chứng như thế là đủ rồi. - Không, hãy cho tôi trình bày diễn tiến của sự việc. Hạnh bác bỏ ý kiến của công an Hoàng, tiếp : - Cách đây trên một tháng, trong trận mưa đầu mùa, nước từ viên ngói bể trên nóc kho đổ xuống đống hàng tiếp liệu, Trần Vũ đích thân lên thay viên ngói bể ấy. Chiếc áo bị rách toạc sau lưng, nước mưa ướt đẫm cả áo quần, tôi đã tự động ứng trước cho Vũ bộ áo quần mới và giữ lại bộ áo quần cũ để đối chiếu khi vào sổ sách sau nầy. Đây là lưng áo bị rách, cán bộ Hạnh vừa nói vừa trình phần lưng áo ra trước cử tọa, rồi tiếp : - Bộ đồ cũ nầy tôi cất trong kho, bỗng nhiên biến mất từ hơn hai tuần nay.” Hoàng đập bàn đứng lên, nhưng Hạnh vẫn tiếp tục nói với nhịp độ nhanh và quả quyết hơn : - Tôi xin xác định rằng Trần Vũ không hề cưỡng hiếp tôi.. Tôi không phải là nạn nhân của Trần Vũ mà là nạn nhân của ông, thưa ông Thanh Hoàng. Vừa dứt lời, Hạnh ôm mặt gục lên bàn khóc tức tưởi. Những lời chứng của cán bộ Đỗ Thị Hồng Hạnh là cú tát đau điếng đối với Thanh Hoàng. Hắn tái da mặt, đôi hàm răng nghiến lại. Bên dưới hội trường, tù nhân xúc động, âm thầm bấm tay nhau. Những âm thanh lào xào nổi lên như khi ta đứng giữa rừng lau sậy trong cơn gió. Đó là âm thanh của hàng trăm bàn tay tù xoa vào nhau trong niềm phấn kích. Cuộc tố khổ bất thành. Nhân chứng đã can đảm lội ngược dòng. Giám thị trưởng cho lệnh giải tán. Trần Vũ trở lại nhà kỷ luật. Đêm nầy, đôi chân củaVũ nằm trong cùm, nhưng trái tim chàng ở bên Hạnh, người con gái can trường . Hai ngày sau, Hạnh nhận được lệnh về trình diện ty Công an. Dù vô tội, Trần Vũ cũng bị cùm thêm bảy ngày nữa mới được thả. Đôi chân sưng vù, chàng phải lê từng bước. Máu rỉ ra từ những vết thương do miệng cùm cứa đứt. Niềm hân hoan trong trận “chiến thắng con tim” đã xoa dịu phần nào cơn đau đang hành hạ thể xác Trần Vũ. * * * Đã hai tháng qua rồi, cán bộ Hạnh không quay lại trại tù nầy nữa. Trần Vũ được trả về đội sản xuất rau xanh cùng làm việc với anh em những tháng ngày vui vẻ. Bạn tù đều cảm thông và thương mến chàng hơn. Buổi sáng Chủ nhật, tù nhân lần lượt xuất trại làm công tác xã hội chủ nghĩa. Riêng Trần Vũ và bốn bạn tù nữa được lệnh ở lại thăm nuôi. Đây là lần đầu tiên trên suốt bốn năm Vũ mới được diễm phúc nầy. Anh vô cùng hồi hộp và nôn nóng tự hỏi, ai là thân nhân đến thăm mình. Hảo, người chị ruột đã mất tin tức sau ngày 30 tháng 4 năm 75? Tân, thằng bạn không quân được tha trước? Thời gian đợi chờ là lò lửa đốt nóng tim gan. Một giờ, rồi hai giờ người ta mới kêu tên năm người ra khu thăm nuôi. Bốn bạn kia gặp được ngay vợ con. Họ nắm tay nhau mừng mừng tủi tủi. Riêng Vũ thì ngơ ngác tìm thân nhân. Chợt, một thiếu phụ đến bên Vũ hỏi nhỏ : - Chú là Trần Vũ ? Hai người cùng đến bàn ngồi. Thiếu phụ thấp giọng giới thiệu : - Tôi tên là Hồng, chị của Hạnh. Cô ấy nhờ tôi lên thăm chú. Nó gởi ít quà và mười đồng cho chú bồi dưỡng. Tôi đã khai báo với cán bộ rằng, tôi là chị bà con của Trần Vũ và đưa số tiền đó cho ông ấy “quản lí” theo nội qui của trại. Chị vừa nói vừa luồn tay dưới bàn chuyển cho Vũ một gói giấy. Vũ vội lận vào lưng quần. Hai bên trao đổi với nhau về sức khỏe của Hạnh và đặc biệt Vũ muốn biết hiện giờ nàng đang làm gì, ở đâu? Chị Hồng không trả lời trực tiếp mà chỉ bảo từ từ rồi sẽ rõ. Hai mươi phút trôi qua, giờ thăm nuôi chấm dứt. Dù mới gặp nhau lần đầu mà phút chia tay cũng nghe lòng quyến luyến. Về đến trại, Vũ vứt xách quà trên sạp, vội mở gói giấy xem bên trong có gì. “Ôi, thư của Hạnh!”, Vũ thốt lên mừng rỡ. Tim anh vừa rộn ràng, vừa thương cảm. Nét chữ thân quen dịu dàng trải đều trên mặt giấy vàng đục : “Anh Vũ Yêu Thương; Không thể lên thăm anh được, nên Hạnh nhờ chị Hồng, người chị cả của em cũng trạc tuổi chị ruột anh. Em muốn mượn chị em để thay thế hình ảnh chị Hảo của anh hiện giờ ở rất xa. Em đã đến tận quê anh thăm dò mới biết chị ấy đang sống ở Mỹ cùng với chồng và một con. Đã có người hứa giúp liên lạc với chị Hảo để báo tin về anh. Sức khỏe của em vẫn tốt. Em đã nộp đơn xin chuyển cơ quan và đang chờ đợi cấp trên giải quyết. Bố em đã biết mọi chuyện vừa qua. Ông mắng em là thiển cận và hồ đồ. Chị Hồng là người cảm thông và thương em nhiều nhất. Anh yêu ơi, hôm trên hội trường, nhìn những vết sưng bầm trên mặt anh, em rất đau lòng. Thanh Hoàng đã buộc em làm chứng gian để trị tội anh, bởi anh là nguyên nhân của việc em quyết định từ hôn. Đối với Thanh Hoàng sự phản bội là một sỉ nhục ông ta. Hôm ấy em nói như kẻ lên đồng. Em không nói bằng lý trí mà nói bằng trái tim em. Trước đây, em đã có giao tình với Hoàng. Làm vợ Hoàng, trên một bình diện nào đó thì có lắm phụ nữ mong ước. Bởi anh ấy xuất thân từ một gia đình có bề dày công lao cách mạng. Từ ngày gặp anh, ngoài những kiến thức hiểu biết tổng quát, anh còn cho em những xúc cảm rất mới mẻ về thể xác lẫn tâm hồn. Hoàng đã đến với em gần một năm nay, thật tình mà nói em rất khờ khạo. Nhờ anh, em mới phát hiện sự cục mịch, thô lỗ và ích kỷ của người đàn ông trong tình trường. Vũ ơi ! anh là tù nhân của chế độ. Nhưng trái tim không là tù nhân của một ai. Con tim không phân biệt kẻ chiến thắng, người bại trận, không phân biệt chủ ngục với người tù. Con tim chỉ biết yêu và dâng hiến. Tại sao phải dựng bức tường ý thức hệ để ngăn cản tình yêu? Em ngồi viết cho anh mà nghe lòng mình tận cùng cô đơn. Em chán ngấy cái xã hội nầy, cứ để hận thù dày xéo con tim. Em yêu anh và muốn được sống bên anh. Có lẽ trọn đời em sẽ không quên quảng thời gian trên ấy. Dù rất ngắn ngủi nhưng lại sâu đậm hơn bất cứ lúc nào. Ta đã từng yêu nhau trong khoảnh khắc, vụng trộm, nhưng đầy ngọt ngào nồng ấm. Với Hoàng, chỉ để lại cho em những giây phút nhạt nhẽo và chán chường. Em không hề đặt hy vọng hai ta là đối tượng hôn nhân của nhau, nhưng em vẫn quyết định từ chối làm vợ của Hoàng, bởi em tin rằng làm vợ Hoàng sẽ không còn hạnh phúc. Thư không viết được nhiều đâu. Bị phát hiện sẽ làm khổ anh. Chị Hồng sẽ thay em thỉnh thoảng lên thăm anh. Rất nhớ anh. Hồng Hạnh. Thời gian qua nhanh, nhưng “Hội chứng Trần Vũ” vẫn còn âm ỷ trong đám tù nhân. Ngoài hiện trường lao động hay trong láng trại hễ có dịp là bạn bè trêu chọc. Một bạn tù cuốc đất bên Vũ ngâm nga : “Thà một phút huy hoàng rồi chợt tối, còn hơn tù thui thủi biết bao năm?” (nhại theoThơ Xuân Diệu) Những cặp mắt đổ dồn về phía Vũ rồi những tiếng cười ha hả vang lên. Bạn khác chen vào với giọng thương cảm : “Thương cho cây quế giữa rừng, để cho con Mán mụ Mường nó leo.”( nhại theo ca dao) Tiếp theo là một giọng than vãn : “Muội ơi nắng quá bình khô nước, đời vắng nị rồi ngộ chết khô !” (nhại theo thơ Vũ Hoàng Chương) Bốn tháng sau, Vũ lại được chị Hồng lên thăm. Lần nầy, sau khi lén đưa được bức thư, chị dặn Vũ phải cẩn thận. Chị cho biết Hạnh chưa được Bộ Nội Vụ chấp thuận chuyển cơ quan và hiện phục vụ tại thành phố Hội An. Về đến trại, Vũ vội vàng bóc thư ra đọc: Anh yêu thương, mới đó mà đã xa nhau hơn sáu tháng rồi. Em nhớ anh ray rứt trong những đêm dài thao thức. Có lẽ anh là người mới cảm nhận sâu sắc nỗi đau của đợi chờ vô vọng. Hiện giờ, người ta dùng thế lực gây sức ép không cho em chuyển cơ quan. Hoàng bảo với em hắn sẽ không bao giờ tha thứ trước hai cái tát phản bội của em: Một tình yêu và một nghề nghiệp. Tay nầy khá nhiều thủ đoạn. Em biết hắn đang tìm cách trả thù em. Em nhắc anh nhớ hãy hủy bỏ những thư em gởi. Thân phận tù đày của anh như “chỉ mành treo chuông”xin anh cẩn thận giữ thân mình. Không cần phải viết cho em. Vắn tắt mấy lời tin anh rõ. Nhớ anh. Hồng Hạnh. * * * Vũ nhận lệnh mang hết đồ dùng cá nhân trình diện Ban Trực Trại. Họ xáo tung áo quần của Vũ và lục soát tất cả không bỏ sót cả lai quần, bâu áo. Chỗ nằm của Vũ cũng có người đến lật từng thanh giường từng miếng gỗ. Chẳng có kết quả nào, Vũ bị chuyển đến một đội khác, đội hình sự. Chỗ nằm của Vũ được sắp vào giữa hai tay tù hình sự khét tiếng ngoài đời, Đại và Phi. Cả hai mang án tù mười năm về tội đâm chết người trong sòng bạc. Tính trầm tĩnh và kiên nhẫn là hai yếu tố giúp cho Vũ vươn lên và yêu đời. Chàng làm việc rất hăng say và xốc vác, sẵn sàng tiếp tay cho những bạn tù yếu sức. Những kiến thức trong trường, ngoài đời của Vũ đã giúp cho đội đi cây đạt được tiêu chuẩn của trại ấn định dễ dàng mà lại bớt phần vất vả. Công tác thường xuyên của đội là hạ những cây danh mộc xẻ thành ván chuyển về cho toán thợ mộc sản xuất bàn, ghế, tủ, giường. Trời vào Đông, cơn mưa phùn rả rích đêm ngày. Đây là thời điểm gây khốn khổ nhiều nhất cho đội đi cây.Với dốc đèo trơn trợt, loài vắt, loài ve xuất hiện dày đặc trên lá cây rừng. Vắt bám vào lưng, vào cổ người tù. Vắt luồn lách vào nơi kín đáo nhất của con người. Chúng hút máu mà ta không hề hay biết, đến khi no nê là tự động buông mình rơi xuống đất để lại vết cắn máu vẫn tiếp tục chảy ra. Người đi rừng có thói quen hễ cảm thấy có cái gì ươn ướt, nhơn nhớt, lành lạnh trong lớp áo quần là thò tay vào rứt ngay một chú vắt to bằng đốt ngón tay, bụng trương đầy máu. Độc hại nhất là loài ve. Ve tìm những ngóc ngách có nhiệt độ ấm áp là chui vào đó. Chúng cắn rứt triền miên, lại cố bám lấy “hộ khẩu thường trú” trong lỗ tai thì thật là khổ cho thân tù. Trời tạnh mưa, nhưng rừng già còn sũng nước.. Đội đi rừng khá vất vả mới hạ được cây gỗ lim. Toán dùng cưa dứt cây thành từng đọan. Vũ cùng anh em khác có trách nhiệm tỉa cành. Ngọn cây ngã đổ về hướng dốc đứng cao, bên dưới là con suối, nước nguồn đang chảy về cuồn cuộn. Vũ khó khăn lắm mới bám được bờ dốc đổ thoai thoải về hướng suối làm nơi đứng để chặt cành. Tên Phi và Đại với áo mưa trùm đầu, cũng đến bên Vũ tìm chỗ đứng. Vũ đưa chiếc rựa ra xa, người chênh vênh trên bờ dốc. Bỗng một bàn chân đạp mạnh vào lưng Vũ. Mất đà, anh lộn nhào từ trên cao rơi dọc theo triền dốc đầy đá tảng rồi rớt xuống dòng suối. Chiếc áo mưa đang mặc trở thành cái phao cứu Vũ. Nước đẩy trôi một đoạn, anh bình tĩnh nắm được ngọn cây chìa ra trên mặt nước. Khi nghe tiếng la: “tai nạn, tai nạn !!” của tên Phi, mọi người chạy dọc theo bờ suối cứu Vũ. Chân trái bị gãy, đầu và mặt có nhiều thương tích. Quản giáo cho người khiêng Vũ về trạm xá. Những ngày chân bị bó bột, nằm buồn, Vũ chợt nhớ đến mẫu chuyện Phúc Họa Khôn Lường trong Cổ Học Tinh Hoa: Ngựa Tái ông đã bỏ đi sang nước Hồ, còn rủ được ngựa quý của đất Hồ trở về, Tái ông vẫn không cho là phúc. Có ngựa hay, con trai Tái ông bị ngã ngựa gãy chân, Tái ông cũng không cho là họa, bởi họa phúc xoay vần. Vũ mỉm cười thầm nghĩ : “chẳng có gì để mà buồn” rồi ngâm nga : “Kìa tụ tán chẳng qua là tiễn biệt, Ngựa Tái Ông họa phúc biết về đâu!” ( Thơ Huỳnh Thúc Kháng) Trần Vũ được chuyển qua toán làm việc nhẹ, ngày ngày chẻ mây đan giỏ. Từ khi Hạnh thẳng thừng bác bỏ những cáo buộc Vũ về tội cưỡng dâm do cán bộ Hoàng sắp đặt, anh luôn canh cánh nhớ ơn nàng vì mình mà Hạnh phải gánh chịu bao đắng cay, trù dập. * * * Sáng ngày 15 tháng 2 năm 1980, sáu tháng sau ngày Vũ bị tai nạn, tù nhân chuẩn bị xuất trại đi làm, Vũ được lệnh mang tất cả đồ dùng cá nhân trình diện Ban Giám Thị. “Lại có chuyện gì sắp xảy ra cho hắn?”, bạn tù xì xào bàn tán. Người đoán Vũ bị chuyển qua đội khác, kẻ hoài nghi chẳng lẽ họ đưa hắn đi Bắc? Dự đoán nào cũng khoác màu đen lên cuộc đời Vũ. Riêng Vũ thì rất điềm nhiên tự tại, bởi anh sẵn sàng chấp nhận bất cứ hoàn cảnh nào. - “Anh đã thể hiện một cải tạo viên tiến bộ về mặt tư tưởng và lao động. Nay, Đảng và Nhà Nước quyết định tha anh về đòan tụ với gia đình”. Lời tuyên bố quá bất ngờ của Giám thị trưởng, khiến Vũ đứng ngây người như trong cơn mơ. Anh không tin lỗ tai mình nữa, đến khi quản giáo trực gọi chàng vào ký giấy tờ, Vũ mới chắc chắn rằng chàng thật sự thoát được cảnh đọa đày. Sau một giờ làm thủ tục, Vũ nhận một giấy Quyết Định Ra Trại và 20 đồng bạc đi đường. Vũ rời trại với bộ áo quần tù mới phát. Tất cả đồ cá nhân còn lại, Vũ yêu cầu cán bộ chuyển cho hai tù hình sự tên Đại và Phi kèm theo mảnh giấy có ghi lời nhắn: “Xem như món quà mọn dành cho hai bạn với lời cảm ơn chân thành của tôi. Trần Vũ.” Vũ lê đôi nạng gỗ suốt quãng đường dài mười cây số. Khi mặt trời chiều vừa gối đầu trên đỉnh ngọn núi cao nhất của Trường sơn, Vũ mới đến được bến xe huyện lỵ. Bác tài xế đỡ Vũ lên chiếc xe khách cuối cùng rời thị trấn. Quyết định đầu tiên của Vũ là đến nhà chị Hồng để hỏi thăm tin tức của Hạnh. Có thể Hạnh đã lấy chồng hoặc đã thuyên chuyển đến một đơn vị nào rất xa. Điều quan tâm của Vũ là phải cảm ơn nàng lần cuối cùng, trước khi gởi đời mình vào nơi bị cưỡng bức cư trú : Khu Kinh Tế Mới . Nhà chị Hồng ở làng Cẩm Lệ, một địa phương nổi tiếng trồng thuốc lá. Ngôi nhà màu vàng nhạt, mái ngói lâu đời đã xanh rêu, nổi bật là chiếc sân rộng lát gạch bát tràng. Nghe tiếng chó sủa, chị Hồng ra mở cửa. Chị trố mắt, kinh ngạc kêu lên: - Vũ, chú được tha rồi hả ? Nhìn vào cặp nạng với ánh mắt đầy lo âu : - Chuyện gì đã xảy ra cho chú thế ? Vũ không trả lời ngay, anh lục túi lấy tiền trao cho bác xe ôm. Chị Hồng ngăn lại dành phần trả, bác xe ôm tươi cười nói : - Tôi chở giúp đấy, người anh em cũ của chúng tôi mà. Vũ chưa kịp cám ơn, ân nhân đã vội vàng phóng xe đi. Vũ quay qua chị Hồng hối hả hỏi: - Hạnh thế nào, bây giờ làm gì, ở đâu ? Chị Hồng nhìn Vũ bảo : - Việc ấy sẽ nói sau, giờ đây mời Vũ dùng cơm với mẹ chị và gia đình. Bóng đêm phủ trùm cảnh vật, nhà nhà đều lên đèn. Bữa cơm đầu tiên với không khí gia đình đầm ấm khiến cho lòng Vũ cảm xúc dâng trào. Được biết chồng chị Hồng là công nhân của một Lâm trường cách xa nhà, lâu lâu mới được phép về thăm gia đình. Hồng và Hạnh là hai chị em cùng cha khác mẹ. Chị Hồng ở lại miền Nam với mẹ. Người cha tập kết ra Bắc lấy vợ khác, sinh ra Hạnh tại thành phố Vinh. Đầu mùa Xuân mà tiết trời khá oi bức. Chị Hồng bắc ghế ngoài hiên cùng Vũ ngồi tâm sự. Sau khi nghe Vũ tường thuật những việc xảy ra cho chàng từ ngày Hạnh bị triệu hồi về Ty, cùng mưu đồ ám hại do hai tên tù hình sự thực hiện, Chị Hồng lắc đầu thốt lên : - Ghê thật ! rồi tiếp : - Đã trên một năm rồi, Hạnh không cho chị lên thăm Vũ vì tên Hoàng theo dõi chị. Phần Hạnh thì gặp muôn vàn khó khăn. Một mặt chúng lưu giữ không cho nó chuyển cơ quan, mặt khác cố truy tìm những vật chứng về sự liên hệ mật thiết giữa hai người. Đó là phương cách duy nhất để hủy họai danh dự của Hạnh mà Hoàng đã thề sẽ không bao giờ tha thứ. Chị Hồng ngưng kể, nhìn Vũ một hồi lâu rồi ân cần bảo : Đêm nay Vũ nghỉ lại đây. Ngày mai chị sẽ đưa chú đến thăm Hạnh. Con nhỏ vẫn còn tốt số, Chúa đã che chở cho nó ! Vũ giật mình, nôn nóng ngắt lời : Hạnh đã gặp tai nạn phải không ? Gần như thế, thằng Hoàng hăm he sẽ đòi lại món nợ đời mà Hạnh đã gây ra cho nó.. Rất may là thư của Hạnh chú đã tiêu hủy. Bằng không, lần khám xét trên ấy mà họ bắt gặp chỉ một bức thư của Hạnh là hai người sẽ bị khốn đốn. Thằng ấy đầy mưu mô quỉ kế. Mới đây, Thanh Hoàng bỗng làm lành với Hạnh. Hắn yêu cầu cô ấy rút lời từ hôn trở lại với hắn. Con nhỏ cứng rắn bảo : - Nước đổ ra sàn còn mong gì hốt lại, đồng chí tìm một người khác xứng đáng hơn. Hoàng gằn từng tiếng: - Đến bây giờ mà cô vẫn còn mê muội. Con nhỏ nổi giận gầm lên : - Đồng chí nói ai mê muội ? Hoàng trợn mắt, hét vào mặt Hạnh : - Tôi nói đồng chí mê muội đấy, được không? Tao sẽ trị thằng giặc đó liệt đời luôn. Con bé không vừa, dang tay tát vào mặt Hoàng một cái như trời giáng, rồi thét lên : - Quân đốn mạt ! Bất ngờ, Hoàng rút súng lẫy cò. Một tiếng nổ vang lên chát chúa. Hạnh ngã xuống, máu chảy tràn trên mặt đất. Người ta vội chở cô ấy đi bệnh viện cấp cứu ngay. Rất may là viên đạn không trúng tim mà đi chệch lên trên làm gãy xương vai. - Sự việc xảy ra bao lâu rồi hả chị ? Vũ lo lắng hỏi. - Vừa tròn một tháng. Với tấm chân tình Hồng tiếp : - Hạnh, nó yêu em thật lòng Vũ à. Con nhỏ nầy cứng đầu lắm. Mẹ ruột nó mắng chửi, ông già khuyên răn mãi mà nó cương quyết không chịu trở lại với thằng Hoàng, nó bảo : -Vợ chồng mà không hòa hợp làm sao chung sống với nhau cho tròn vẹn. Thiếu Tá Thanh Hoàng hiện nay đã bị ngưng chức. Hắn bay ra Hà Nội đã nửa tháng nay. Suốt cả đêm Vũ không hề chợp mắt, trông trời mau sáng. Tình yêu trong trái tim đóng kín giờ đây như được ra khỏi lớp vỏ bọc mặc cảm thân phận người tù và đang thôi thúc Vũ nhanh chân đến với Hạnh. Trời còn tối mịt, chị Hồng cùng Vũ đón xe đi Hội An, một thành phố cổ nổi tiếng ngày xưa nằm về hướng đông nam Đà Nẵng. Hội An mới trải qua 6 năm sau ngày “giải phóng” mà như người mắc bệnh cùi, khuôn mặt lở lói, nhớp nháp, xanh xao. Đường phố loang lổ ổ gà. Nhà nhà cửa đóng then cài, lưa thưa một vài bóng người thất thểu trên vỉa hè đầy rác rưởi. Hạnh ở trong một tòa nhà chung cư ba tầng. Thang gác chật hẹp lại thêm dốc đứng, với đôi chân đi nạng, Vũ trèo lên vô cùng khó khăn. Trên lan can, người ta phơi áo quần giăng mắc khắp nơi. Ngay cả những quần đùi, xì líp họ cũng chẳng ngần ngại bày ra. Dọc theo một hành lang tối tăm, ẩm thấp là những cánh cửa có ghi số phòng: P311, P312, P313... Chị Hồng dừng lại cửa P319 rồi gõ vào đó bốn tiếng. Vũ hồi họp đợi chờ. Cánh cửa từ từ xịch mở. Hạnh xuất hiện nơi khung cửa, vai trái bó bột, gương mặt xanh xao, tiều tụy nhưng đôi mắt nàng vẫn còn ngời lên ánh tự tin. Hạnh cười với chị Hồng. Bất chợt nàng trông thấy người đàn ông đi nạng đứng ngoài xa. Hạnh nhìn chị Hồng, rồi nhìn Vũ, bỗng nàng la lên: - Vũ, anh đã về ! Hạnh chạy tới ôm chầm lấy Vũ. Chàng buông cặp nạng gỗ, hai tay giữ đầu Hạnh. Họ gục mặt vào nhau. Dòng nước mắt nhớ thương tích tụ lâu ngày của đôi tình nhân đầy nghịch cảnh đã chan hòa. Họ uống những giọt lệ hạnh phúc qua làn môi mặn. Chị Hồng lặng lẽ lau khô nước mắt đang chảy dàn dụa trên má. Vừng thái dương đã lên cao. Đôi bồ câu tha những sợi rác về làm tổ cũng vừa sà cánh trên nóc dãy nhà dân trước mặt. Nắng chan hòa trên mái ngói rêu xanh làm dịu bớt nét già nua của thành phố cổ. CHÁU ĐÍCH TÔN - Chị Hai à, đằng nào thì bọn em đã trưởng thành rồi. Thằng Út học hết năm nầy sẽ thi lấy bằng tú tài toàn phần. Em và thằng Lân đã có công ăn việc làm vững vàng. Còn cháu Đạt đã mười một tuổi. Chúng em mong chị nghĩ đến việc lập gia đình để đỡ phần cô quạnh. Lân tiếp theo lời Lực : - Chị đã dành hết quãng đời thanh xuân thay cha mẹ nuôi bọn em ăn học nên người. Nếu chị chịu bước thêm bước nữa bọn em hứa sẽ lãnh phần nuôi dưỡng cháu Đạt ăn học thành tài. Lưỡng, cậu em út cũng vội vã cất tiếng góp lời cùng hai anh : - Chị hai ơi, em đã sắp đặt kế hoạch để hoàn thành ước nguyện của em. Anh Lực là một giáo sư dạy đệ nhị cấp, anh Lân là kỹ sư cơ khí và nhất định tương lai của em là một phi công. Chị yên chí đi, gia đình mình sẽ không còn sợ thua kém ai nữa đâu. Lành ngồi nghe ba đứa em trai thay nhau khuyên chị lấy chồng. Nàng biết đám em thương yêu và kính trọng nàng chẳng khác gì người mẹ. Từ ngày cha mẹ mất sớm, Lành nuôi chúng nó trưởng thành, thằng Đạt con của nàng nay cũng đã vào lớp đệ thất trường công. Những ngày lễ lạt như hôm nay cả nhà mới có dịp tụ họp nhau đông đủ. Lực, em trai kế nàng thấy bà chị cô đơn đã mai mối ông giáo sư góa vợ dạy cùng trường. Trước đây mấy tuần, giáo sư Trần Trung Tính theo Lực đến chơi nhà để “coi mắt” Lành . Và “tiếng sét ái tình” đã dội trái tim ông giáo ngất ngây. Ông đã thú thật với Lực rằng từ ngày gặp Lành ông đã tương tư mất ăn mất ngủ dù tuổi đời của ông vượt quá cái tuổi “ Tứ thập nhi bất hoặc”. Lực rất phục tính tình của thầy Tính, sống mẫu mực, nghiêm túc của nhà mô phạm. Gia đình vợ thầy đã dành nuôi đứa cháu ngoại mới sinh, sau khi vợ thầy mất vì sinh khó. Cha mẹ vợ cũng nhiều lần khuyên con rể tục huyền nhưng thầy chỉ ậm ừ cho qua chuyện. Riêng Lành, con tim nàng như bị đóng băng từ ngày mối tình đầu của nàng đổ vỡ, vừa bi thương vừa tủi nhục. Nàng bây giờ như cây mía trổ cờ, khô khốc cả tình yêu. Đợi cho lũ em ngưng tiếng, Lành tươi cười bảo : - Chuyện vợ chồng là cả một đời người, các em để chị suy nghĩ đã. Vả lại Lực và Lân cũng phải lập gia đình chẳng lẽ lo cho chị mà các em quên đi bản thân mình sao. Mười một năm qua chị sống như thế nầy cũng quen rồi. Còn thằng Đạt con trai chị đang trong cái tuổi “ăn chưa no lo chưa tới”. Lực ngắt lời chị : - Chị Hai à, ngày cha mẹ mất, thằng Út mới mười tuổi, thì có khác gì cháu Đạt bây giờ. Ngày đó không có chị tảo tần nuôi dạy, có lẽ chúng em đã trở thành những đứa trẻ “lạc chợ trôi sông” rồi. Chúng em luôn luôn khấn vái cha mẹ phò hộ cho chị những năm tháng cuối đời được sống hạnh phúc bên người chồng thực lòng thương yêu và kính trọng chị. Nghe Lực nhắc đến “người chồng thực lòng thương yêu và kính trọng”, bỗng ngực nàng đau thắt khiến cho nước mắt trào ra, Lành ôm mặt chạy vào phòng. Ba anh em còn lại ngỡ ngàng nhìn nhau ngậm ngùi. Mùa Đông cũng như mùa Hè, khi hừng đông chưa ló dạng, người ta đã thấy một người con gái cỡ tuổi mười lăm, mười sáu, kẽo kẹt trên vai đôi quang gánh với hai chiếc bầu lớn có nắp đậy đan bằng nan tre trét dầu rái. Cô đi ngang qua xóm Thọ Tây dọc theo huyện lộ rồi băng đường ruộng đi xuyên qua khu Rừng Dê đến tận làng Gò Cát để bỏ mối kẹo bánh tại các tiệm tạp hóa hay quán hàng ăn uống nằm dọc theo đường làng và tại chợ Đình. Khi mặt trời lặn bên kia dãy núi, cô gái quay về, trên vai trĩu nặng hai bầu lúa đầy. Việc mua bán của cô gái chỉ trao đổi những nông sản là chính mà người nông dân suốt đời chân lấm tay bùn rất khó kiếm được đồng tiền mặt. Còn con buôn như cô phải đổ mồ hôi, chân đi mòn đất , lấy công làm lời. Người con gái với độ tuổi trăng tròn đó chính là Đỗ Thị Lành. Nàng là chị cả trong gia đình có bốn chị em. Nhà đông con, cha mẹ Lành suốt một đời phải cật lực làm việc mà vẫn không vượt qua cảnh gieo neo. Ông bố làm thợ nấu đường. Hàng năm đến mùa đạp mía ông được các chủ lò kêu nấu đường đổ muỗng. Thông thường các điền chủ chuyên trồng mía hàng mẫu đất trở lên mới sắm đủ bộ đồ nghề. Vừa che đạp mía vừa chảo nấu đường. Khi xong phần mình, chủ chòi cho những người trồng mía lẻ tẻ lân cận thuê chòi. Nhờ vậy mà bố của Lành giữ chân nấu đường suốt mùa đạp mía. Mẹ nàng chuyên nghề thắng đường làm kẹo chặt. Đây là món đặc sản của gia đình Lành sản xuất từ mật và đường đen. Công việc làm hoàn toàn thủ công, nặng nhọc và khéo tay. Qua nhiều công đoạn viên kẹo có màu trắng vàng được gia vị mùi bạc hà vừa thơm miệng vừa chống cảm lạnh. Dù năm tháng dãi dầu mưa nắng, nước da Lành vẫn trắng hồng, mịn màng như thoa phấn. Nụ cười tươi tắn khoe đôi hàm răng trắng đều như hạt bắp. Mái tóc dài nửa lưng đen tuyền óng mượt che một phần khuôn mặt chữ điền càng tăng thêm dáng e ấp thẹn thùng trước những lời chọc ghẹo của đám thanh niên tập thể dục trên bãi cát cạnh bến đò vào mỗi sáng sớm. Nhà Lành ở bên kia bờ sông Trà Khúc nên ngày nào cô cũng phải qua đò hai lượt đi về. Vừa bước chân xuống bến đò là bị cái đám thanh niên “may-ô quần đùi” bu lại mua kẹo. Đây chỉ là cái cớ để mấy chàng trai đa tình nhìn ngắm dung nhan của Lành. Ban đầu cô bé có hơi thẹn thùng trước những câu chòng ghẹo, dần dà rồi cũng quen. Là người con gái đa cảm làm sao nàng tránh khỏi xao xuyến trước những lời tán tỉnh. Trong đám thanh niên ấy có một chàng trai chỉ đứng nhìn Lành với ánh mắt vừa thương hại vừa cảm phục. Anh chàng tỏ ra rất hào phóng, lần nào cũng mua nhiều kẹo phát cho bạn bè và từ chối không nhận tiền thối lại. Cả bọn nhao lên: - Thằng Phong nó đóng hụi “Tiền cheo heo cưới” trong tương lai đấy ! Nhớ về bỏ ống làm của hồi môn. Lành đỏ mặt e lệ khiến cho cả bọn cười vang dưới bầu trời xanh lồng lộng, như làm chao động cả bãi dâu nghiêng mình lao xao cạnh bờ sông. Dù Lành chưa một lần gặp riêng Phong, nhưng hai người đã trao gởi tình mình qua ánh mắt. Rồi mùa tựu trường đến, đám thanh niên ấy tản mát đi khắp nơi. Bãi cát trở lại cảnh vắng lặng mỗi buổi sáng mai hồng. Lành cảm thấy gió Thu năm nầy như lạnh lẽo hơn mọi năm và luyến tiếc con nước nguồn năm nay đổ về quá sớm làm xóa sạch những dấu chân người trên cát. Con tim mười sáu của Lành đã bắt đầu e ấp bóng hình Phong và đêmngàyvươngvấn... Một năm trôi qua. Lành đi đi về về trong mong ngóng, cô đơn. Rồi ba tháng nghỉ hè của học sinh lại trở về. Đám con trai đã bắt đầu tề tựu tập thể dục trên bãi cát như mọi năm. Lành hồi hộp nhìn đám thanh niên khỏe mạnh mặc áo quần thể thao đồng loạt tập những động tác theo người điều khiển. Ngồi trên chiếc thuyền đang chao nghiêng trên mặt nước, Lành nghe lòng rộn rã theo từng con sóng vỗ nhịp mạn thuyền. Nhưng lạ thay, khi Lành bước xuống thuyền không một người nào để ý. Đám thanh niên ấy dường như không còn nhớ đến người con gái bán kẹo năm nào. Còn Phong, người mà nàng nhung nhớ cũng hờ hững thế sao ? Suốt một tuần lễ đi về nàng mệt mỏi, thẫn thờ. Cái thẫn thờ của kẻ thất tình. Trên đường về nhà như mọi ngày, vai Lành trĩu nặng đôi bầu lúa. Vừa đến đầu truông của khu Rừng, bất ngờ một người đàn ông đội chiếc mũ nỉ che mặt đón đường Lành. Nàng hốt hoảng ré lên. Người thanh niên vội lấy mũ xuống, nhoẻn miệng cười, Lành kêu lên : - Anh Phong ! Đặt gánh xuống, Lành hổn hển : - Làm em hết hồn, anh về hồi nào ? - Xin lỗi đã làm em sợ hãi – Anh về đã một tuần rồi, nhưng không theo bạn bè tập thể thao trong mấy buổi sáng vừa qua để dành sự ngạc nhiên cho em. Vừa nói, Phong tiến đến nắm tay Lành : - Ôi, chỉ mới xa em một niên học mà trông em cao lớn hơn nhiều, sắc đẹp càng thêm mặn mà, khỏe mạnh. Quả đúng như người ta ví von: “gái mười bảy bẻ gãy sừng trâu” , Lành e thẹn rút tay về. Hai người nhìn nhau cùng nghe trái tim mình chung nhịp yêu đương. Phong âu yếm tặng cho Lành xấp vải xoa Pháp màu thiên thanh để may áo dài mà chàng đã chọn mua tại chợ Đông Ba. Kể từ hôm đó, hai người không hẹn mà vẫn gặp nhau thường xuyên trong khu Rừng Dê. Mối tình đầu nồng cháy của người con gái xuân thì cùng chàng sinh viên hai mươi mốt tuổi không có sức mạnh nào ngăn chặn nổi tình yêu cuồn cuộn như thác đổ. Phong hứa với Lành khi tốt nghiệp xong sẽ cưới nàng. Và suốt ba tháng hè họ trao nhau tình yêu đầu đời không hề gìn giữ. Ngày Phong sắp lên đường nhập học, Lành phát hiện mình có triệu chứng cấn thai.. Với thái độ rất tự tin, Phong trấn an người yêu : - Chẳng có gì để em lo lắng. Anh sẽ xin ba mẹ tổ chức đám cưới ngay. Lành sẽ ở với gia đình anh đợi đến ngày sinh nở. Anh sẽ tiếp tục học một năm cuốí cùng, sang năm ra trường là chúng mình sống gần nhau. Hôm sau, Phong trình bày ý muốn cưới Lành với bố mẹ. Ông Xã Đoàn đập bàn quát : - Thằng con hư đốn nầy, mầy bảo tao đi làm suôi với một thằng thợ nấu đường ở cái xóm “khỉ ho”bên kia sông à! Bạn bè tao, anh Cử dưới Huyện, anh Thủ Sắc Vu xã trên , anh Hương Kiểm Tào, họ đang mong mỏi kết suôi với gia đình mình. Tao đã hứa chờ đợi mầy ra trường rồi hẵng hay. Thiếu gì con gái đẹp người, đẹp nết thuộc gia đình danh giá có địa vị trong xã hội, lại đòi cưới đứa con gái buôn gánh bán bưng. - Nhưng thưa ba, chúng con đã thề nguyền yêu nhau trọn đời. Vả lại, hiện thời Lành đã có thai. Mẹ Phong từ nãy giờ ngồi nhai trầu, khi nghe con trai báo tin người yêu đã mang bầu, bà vội vàng phun miếng bã trầu vào trong chiếc ô bằng đồng rồi hứ lên một tiếng : - Đúng là con gái mất nết, hư thân.. Cái dân không có miếng đất cắm dùi mà đèo bòng, Nó “ám” mầy chứ yêu đương gì cái ngữ ấy. Muốn trèo cao bị té nặng cho đáng đời! Ông nó buộc thằng Phong phải cắt đứt ngay mối tình đó. Là con trai duy nhất của giòng tộc trưởng phải cưới cho nó một con vợ có gia đình bề thế, môn đăng hộ đối để ta có cháu đích tôn nối dõi tông đường chứ. Đất ruộng hương hỏa của một họ tộc lớn như thế nầy lại đặt vào tay thứ gái điếm đàng ấy sao. Con mà cãi lời ba mẹ sẽ bị tước quyền hưởng hương hỏa ngay. Sợ thằng con đâm liều, ông Xã Đoàn đưa kế trì hoãn: - Thôi được, con cứ lên đường đi Huế học đến ngày ra trường. Ở nhà ba mẹ sẽ dàn xếp ổn thỏa đợi ngày con về. Nghe bố hứa khiến Phong hy vọng và yên lòng ra đi. Chàng cũng thông báo lời hứa của ba chàng để giúp cho Lành bớt lo lắng. Phong ra đi rồi, vài hôm sau, bà Xã Đoàn chận Lành trên đường về nhà. Bà xỉa xói : - Cô kia, cả nhà cô sống nhờ cái gánh trên vai lại đi chài thằng con dại gái của chúng tôi. Cô đâu có xứng đáng làm vợ nó, không đủ tư cách làm dâu nhà chúng tôi. Gia thế của tôi như thế nầy chẳng lẽ lại đi làm suôi với hạng người như cha mẹ cô. Chúng tôi đã hỏi vợ cho thằng Phong ngoài Huế. Sau khi ra trường nó sẽ ở luôn ngoài đó. Cô hãy suy nghĩ kỹ, đừng đèo bòng mà mang nhục vào thân. Bà Xã Đoàn nhổ bãi nước trầu trước mặt Lành rồi bỏ đi. Nỗi đau đớn ùa đến bóp thắt ruột gan Lành, như hàng trăm mũi dao nhọn thi nhau xoáy vào tim vào óc. Trong giờ phút đó nàng muốn đập đầu vào đá tự vẫn hầu thoát khỏi nỗi thất vọng tận cùng đang cào xé trái tim nàng. Lành không hề nghĩ đến chuyện phá bỏ cái thai mà thà hai mẹ con cùng chết. Và Lành đã cố tình ngã xuống sông khi chiếc đò ra đến giữa dòng. Ông lái đò nhảy xuống nước kịp thời cứu thoát. Một tháng Lành lâm bệnh nặng, cả nhà vô cùng lo lắng. Lực, đứa em trai lớn thường trực bên chị và là người đầu tiên biết về mối tình của chị với anh Phong. Cuối cùng nàng phải thú thật với em trai về cái thai mà nàng đang mang . Để tránh tai tiếng cho gia đình, Lành bỏ nhà vào Sài Gòn tìm việc làm sinh sống chờ đợi đứa bé ra đời. Lực và Lân cũng quyết định theo chị để thằng Út ở lại với cha mẹ. Họ mướn một căn nhà nhỏ trong xóm lao động ở ngã tư Bảy Hiền. Buổi sáng, Lành gánh xoong cháo lòng bán dạo. Buổi tối, nàng đặt vài chiếc bàn và năm mười chiếc ghế dưới cột đèn đường bán chè. Lực đòi nghỉ học để đi làm kiếm tiền phụ giúp chị, nhưng Lành nhất định không cho. Để phụ thêm tiền học phí, Lực phải đạp xe bán báo buổi sáng còn Lân bán bánh mỳ nóng nhận tại lò. Buổi chiều và tối anh em cắp sách đến trường. Gia đình dù nghèo, đôi khi thiếu ăn mà cha mẹ Lành không hề than thân trách phận, nhưng khi ông bà hay tin con gái mình “chửa hoang” thì sức khỏe họ hoàn toàn suy sụp. Trận lụt năm Thìn đã kéo đi một số lớn nhà cửa dọc hai bên bờ sông Trà, cha mẹ Lành cũng bị nước cuốn trôi cùng với căn nhà khi tuổi đời chưa qúa năm mươi. Chị em Lành vô cùng đau đớn trước nỗi bất hạnh của gia đình. May mắn thay, đứa em út bận học hành tại tỉnh lỵ nên còn sống sót, sau vào Sài Gòn sum họp đủ bốn chị em. Công việc nhọc nhằn hàng ngày đã giúp cho Lành phôi pha phần nào nỗi đau khổ, tiếc thương. Khi đứa con ra đời, Lành đã dành hết tâm sức lo lắng cho con mình với đầy đủ bổn phận làm mẹ. Bé Đạt lớn nhanh, mỗi ngày mỗi khôi ngô càng giống Phong khiến cho nàng không tránh khỏi nỗi xót xa cho thân phận con mình. Người ta nói thời gian là liều thuốc làm lành vết thương lòng. Nhưng thời gian không thể xóa mờ được kỷ niệm. Cứ mỗi lần nhìn khuôn mặt con đang ngủ là khiến cho lòng Lành xốn xang. Hình bóng của Phong vẫn tràn đầy trong tâm tưởng. Bé Đạt lên mười hai tuổi, học lớp đệ lục. Đỗ Quang Lưỡng, em út của Lành đã đạt được mộng ước. Hiện giờ Lưỡng đang du học ở Hoa Kỳ ngành lái máy bay phản lực. Các em Lành học hành đều thành công là niềm an ủi lớn lao đối với nàng. Tâm tư đang yên tĩnh, chợt một bất ngờ ùa đến gây xáo động lòng nàng. Sáng nay, Lành nhận được bức điện tín của bà Xã Đoàn, mẹ Phong van nài nàng đưa bé Đạt về quê để gặp cha nó lần cuối cùng. Nàng vô cùng bối rối, phân vân có nên giữ lời nguyền “sống để dạ chết mang theo” từ ngày nàng bị bà Xã Đoàn xỉ vả, tủi nhục. Dù giờ đây, Lành không còn mang mặc cảm một gia đình thấp hèn như xưa nhưng nàng vẫn còn ghê tởm cái gương mặt đanh ác của bà ấy. “Thế nhưng còn Phong thì sao đây?”. Nàng tự hỏi lòng mình. Trước kia, Phong đã mấy lần tới nhà xin cha mẹ Lành tha thứ nhưng ông bà không tiếp và một lần Phong vào Sài Gòn tìm đến nhà của chị em nàng ở khu Ngã tư Bảy Hiền nhưng Lành đã kịp thời dấu mặt và đóng chặt cửa. Với Đạt, con trai nàng, Lành không hề che dấu quá khứ của con để giải thích vì sao nó mang họ mẹ và đặc biệt nàng không bao giờ gây cho con một ấn tượng không tốt về Phong, người mà nó mang cùng dòng máu. Khi Lực đi dạy về, Lành lập tức đưa tờ điện tín và hỏi ý kiến em. Sau khi đọc xong tờ điện tín, Lực nói với chị: - Theo em thì chị nên về. Về trong tư thế đàng hoàng của một gia đình thành đạt để vừa xóa bỏ mặc cảm của chính chị, vừa giúp người ta giải tỏa nỗi ân hận. Hơn nữa, chị cũng phải nghĩ đến nguyện vọng của người sắp chết lại là tình thâm ruột thịt của cháu Đạt. Ngày mai em đưa mẹ con chị ra bến xe đò Miền Trung, việc gấp gáp, xin chị chớ nên chần chờ. Xe dừng lại ở ngã ba đầu làng. Mẹ con Lành đi bộ một đoạn đường đất đến trước ngõ có cổng xây gạch nay đã bạc màu, rêu phong. Nàng cầm tay con ngần ngừ đứng lại một hồi lâu. Chợt, một thiếu phụ cao lỏng khỏng từ trong nhà nhanh nhẹn chạy ra đưa cao hai tay mừng rỡ: - Ôi, cô Lành đã về tới. Chúng tôi đã nóng lòng chờ đợi mẹ con cô mấy ngày nay. Thoạt đầu Lành không nhận ra người đàn bà nầy là ai, sau mới nhớ ra là người chị cả của Phong sống cô độc, không chồng, không con.. Đạt nắm tay mẹ sợ sệt : - Mẹ ơi, ba của con ở đây hả mẹ ? Nàng kéo Đạt vào lòng, dặn dò : - Ừ, đây là nhà nội, ba con đang bệnh nặng, đừng làm phật ý mọi người. Tiếng mõ tụng kinh từ trong nhà vọng ra não nuột. - Phong nó yếu quá, mẹ mời thầy đến tụng kinh cầu an hằng ngày. - Chị Hai giải thích. -Từ ngày cô bỏ đi, cậu nó sinh ra rượu chè be bét, say sưa cả ngày. Ba mẹ tôi cưới cho Phong cô vợ nhưng chẳng đẻ đái đựơc gì như gà mái bị nân. Cuối cùng mợ ấy nản lòng bỏ về sống với cha mẹ ruột. Ba tôi buồn rầu, lâm bịnh rồi qua đời. Thấy bà chị của Phong nói chuyện với Lành có vẻ thân mật, bỗng tim nàng đau nhói. Cũng khuôn mặt nầy của mười hai năm trước lấp ló trong bụi cây để hổ trợ cho mẹ mình nhục mạ, đay nghiến Lành. Và giờ đây, cũng con người nầy lại đón tiếp nàng một cách vồn vã. Chị Hai nắm tay Đạt mời Lành vào trong nhà. Bước vào gian nhà chính khói hương nghi ngút. Bộ chân đèn lớn bằng đồng trên tủ thờ với cặp đèn cầy cháy leo lét tỏa ánh sáng chập chờn lên các tấm liễn chữ vàng treo dọc trên những cây cột gỗ mun đồ sộ đã lên nước bóng lẫy. Bên cạnh là bàn thờ Phật chất đầy hoa quả. Ba nhà sư thay nhau tụng kinh. Lành rờn rợn bước theo chân chị Hai tiến vào gian cánh phải, đèn điện sáng choang. Trên chiếc giường lò xo Phong nằm bất động, thân người lọt thỏm trên bộ nệm lún sâu. Đối diện là chiếc trường kỷ có cẩn xa cừ, bà Xã Đoàn ngồi lần tràng hạt cầu nguyện chợt thấy Lành vào, mắt bà sáng lên. Vẫn mái tóc búi cao như ngày trước nhưng giờ đây đã bạc quá nửa. Ánh mắt không còn sắc sảo, nhường lại cho sự sầu muộn trên đôi mí sụp của tuổi già.. - Trình nội đi con. - chị Hai nhắc cháu Đạt. - Thưa nội con mới về. – Đạt bạo dạn đến trước bà Xã Đoàn vòng tay cúi đầu. - Lại đây với nội. – Buông chuỗi hạt, bà ôm Đạt vào lòng, đôi mắt hấp háy để rơi hai giọt lệ lăn tròn trên đôi má nhăn nheo. Chạnh lòng, Lành tiến tới thêm một bước gần bà Xã Đoàn cúi đầu : - Kính chào bà. Hướng mắt về phía Lành, bà Xã Đoàn lên tiếng nhẹ nhàng : - Cô Lành đã về, phước đức cho gia đình tôi quá, cô không để tâm chuyeän cũ, tôi thật lòng cảm ơn cô. Bà đứng lên chậm chạp nắm lấy tay Đạt đi về phía Phong đang nằm thiêm thiếp. Bà ra hiệu cho Lành tới gần rồi cầm tay nàng và Đạt đặt vào hai tay của Phong buông xuôi trên giường. Bà vò đầu đứa con trai duy nhất của bà chỉ còn lơ thơ những sợi tóc sót lại sau mấy đợt trị liệu bịnh ung thư gan. Mắt Phong nhắm nghiền trong hai hố mắt sâu thẩm. Màu da vàng ệch như xoa lớp nghệ non. Chiếc mền đắp ngang người làm nổi rõ phần bụng nhô cao lên xuống bập bồng theo hơi thở. Căn bệnh đã tàn phá hoàn toàn khuôn mặt tuấn tú và vóc dáng lực sĩ của Phong ngày nào. Tự nhiên, nước mắt thương cảm của Lành rơi lã chã trên mặt Phong đã đánh thức cơn mê của chàng. Phong mở mắt lờ đờ nhìn mọi người, chợt chàng nhận ra Lành, ánh mắt bỗng nhiên rực sáng như chính nàng là món thuốc thần đã đem lại khí lực cho người bệnh. Những ngón tay xương xẩu cố nắm chặt lấy tay Lành với sức lực còn lại, Phong thì thào : - Vô vàn cảm ơn em, xin tha thứ cho mẹ anh, anh xin tạ lỗi cùng em và con. Phong cố gượng lấy nụ cười nhưng đôi môi khô khốc khiến cho nụ cười càng thêm héo hắt. Không đè nén được nỗi đau đớn tận cùng và cơn xúc cảm như con sóng ngầm ùa tới, Lành ôm choàng lấy thân thể Phong chỉ còn là bộ xương cứng đờ, để mặc cho nước mắt trào ra trên ngực chàng. Phong gắng gượng đưa cánh tay yếu ớt vuốt tóc nàng mà suốt mười hai năm trời chàng luôn luôn tơ tưởng. - Ba ơi, con là Đạt, con trai của ba đây, ba ơi ! Đạt ôm cánh tay Phong lay nhẹ theo từng tiếng kêu, nước mắt nó đầm đìa trên mặt. Lành hoàn toàn bất ngờ trước hành động của con trai. Cái gì xui khiến hay chính là tình huyết thống thiêng liêng đã thôi thúc trái tim tuổi thơ thể hiện tình phụ tử ? Bà Xã Đoàn khóc ngất trên vai chị Hai. Mọi người có mặt trong phòng cũng òa khóc. Phong cố đưa tay sờ mặt con nhưng nửa chừng lại để rơi xuống nệm. Những giọt lệ đọng trên khóe mắt của Phong chảy tràn xuống gối khi đầu chàng nghẽo về phía Đạt để nhìn mặt con. Bàn tay Phong nắm tay Lành chợt dần dần buông lỏng và một luồng hơi lạnh bỗng dưng len vào những ngón tay Lành chạy dọc theo sống lưng khiến nàng rùng mình. Lành hốt hoảng, vừa lay mạnh đôi vai Phong, vừa gào lên : - Anh ơi, Phong ơi, em còn nhiều điều muốn nói với anh, sao nỡ bỏ mẹ con em mà đi, Phong ơi! Mọi người vây quanh giường ràn rụa nước mắt. Thân thể Phong đã hoàn toàn lạnh giá. Đôi mắt chàng nhắm hờ còn nét mặt thì thanh thản . Sau tang lễ, Lành ở lại thêm vài ngày. Tối nào nàng cũng đứng trầm ngâm bên bàn thờ nhìn bức di ảnh của Phong chụp khi còn học ở Huế. Khuôn mặt đầy cương nghị mà vẫn không vượt qua được bức tường lễ giáo đầy khắc nghiệt của gia phong. Ngày từ biệt về lại Sài Gòn, Lành dẫn con đến chào bà Xã Đoàn. Bà cắm nén hương lên bàn thờ rồi nhìn sững ảnh của Phong, khấn vái: - Phong à, bây giờ đây, mẹ chính thức mong con bỏ qua cho mẹ. Ba con thì đã vội vã ra đi, ông để lại cho mẹ gánh nặng của nỗi ân hận dày vò vì đã “chia uyên rẽ thúy” mối tình của con và Lành. Bà cúi đầu trước bàn thờ ôm mặt nấc lên khiến cho đôi vai rủ xuống rung lên từng chặp một. Lành thật sự thương hại trước nỗi đơn độc của tuổi già liền đến nắm tay bà an ủi. Bà Xã Đoàn quay lại ôm Đạt vào lòng dặn dò: - Con bây giờ là cháu đích tôn của ông bà nội. Đừng bao giờ bỏ nội nghe con. Nhớ thường xuyên gởi thư cho bà và thỉnh thoảng về đây thăm nội. Lành ứa nước mắt trước sự quyến luyến tình cốt nhục thiêng liêng khiến cho tâm tư nàng hoàn toàn thanh thỏa. Cùng với chị Hai tiễn chân mẹ con Lành ra tận ngõ, bà Xã Đoàn nắm tay Lành thì thầm: “Nếu được con gọi mẹ thì ta đây sẽ yên lòng trước khi nhắm mắt. ” Lành siết chặt tay bà Xã Đoàn : - Vâng, mẹ lo bảo trọng tuổi già, mọi người đang cần mẹ như cần bóng râm của cây cổ thụ. Con sẽ cố gắng sắp xếp cho Đạt thỉnh thoảng về thăm./ MỘT GÓC ĐỜI TỊ NẠN
Vợ chồng tôi và bốn đứa con qua Mỹ theo Chương trình Tái Định Cư Cựu Tù Cải Tạo đợt HO8. Vì là diện “đầu trọc”, không có bạn bè thân nhân bảo lảnh, nên được phân bổ đến tiểu bang còn thưa dân của Hiệp Chủng Quốc Hoa Kỳ : Arizona. Hội thiện nguyện đón gia đình tôi tại phi trường Phoenix và đưa đến ở trong căn apartment hai phòng, cách thủ phủ của tiểu bang ba mươi phút lái xe. Nhờ theo mấy khóa luyệân Anh ngữ trước khi ra đi , nên con tôi đứa nào cũng bập bẹ được tiếng Mỹ. Chỉ qua vài ngày “nhập gia” là chúng nó kết bạn với một nhóm Mỹ con cùng dãy chung cư. Mấy hôm sau, cả đám tự động mang đến nhà tặng chiếc TV màu chín inches còn xài tốt. Con tôi mừng như được trúng số. Ngày còn ở Việt Nam, cha mẹ không sắm nổi truyền hình dù là loại rẻ tiền đen trắng, nên hàng đêm chúng phải qua nhà láng giềng xem ké. Phiền một nỗi là ông cán bộ cằn nhằn mang bụi đất vào làm dơ cái nền nhà tráng cement mà ông lau chùi hàng ngày lên nước láng bóng. Hai đứa con nhỏ ông đưa từ Hà Nội về cứ để lưng trần nằm lăn trên nền mà ngủ. Sau nầy, mỗi lần mở truyền hình là ông đóng chặt cửa lại. Mục sư Hồ là người Việt duy nhất đến thăm chúng tôi. Ông ngỏ ý chở cả nhà đi xem thủ phủ Tiểu bang và đến vườn hái nho. Nghe đuợc hái nho là lủ con tôi mắt sáng lên. Chúng vội vã vọt lên xe chẳng cần đợi mời lần thứ hai. Sáu mạng người ngồi trong thùng phía sau xe truck có mui. Trên đường đi, gió nóng quạt vào mặt như đến gần ngọn núi lửa khiến tôi nhớ đến truyện Tây Du Ký, đọan thầy trò Tam Tạng sắp phải băng qua ngọn hỏa diệm sơn, Tề Thiên Đại Thánh phải mượn quạt ba tiêu của Thiết Phiến công chúa quạt cho tắt lửa để Đường Tăng tiếp tục trên con đường thỉnh kinh. Mục sư Hồ không có quạt ba tiêu nhưng xe ông có máy lạnh. Tiếc rằng máy lạnh của xe pickup chỉ dành trong phòng lái nên sáu đệ tử của ngài bị nhốt trong thùng sau xe mệt ngất ngư vì cơn nóng thiêu người. “Nắng tháng Tám nám trái bưởi “ ở Việt Nam, có nghĩa gì so với cái nóng không có độ ẩm của vùng sa mạc nầy. Mồ hôi bị bốc hơi ngay từ trong lỗ chân lông nên làn da khô khốc. Xe chạy về hướng Tucson, mất hơn một giờ thì rẽ vào đường tắt, cánh đồng nho hiện ra xanh ngút mắt. Mục sư liên hệ với chủ nhà vườn, mỗi người nhận một con dao nhỏ và chiếc giỏ đựng nho. Lần đầu tiên trong đời, lủ con tôi mới nhìn thấy tận mắt những chùm nho chín mọng đong đưa trên cành. Tha hồ ăn và tha hồ hái. Người nào cũng cố hái cho thật nhiều mang về nhà bỏ tủ lạnh để dành ăn cho đã đời, ngàn năm một thuở mà ! Tôi nghĩ thầm : “Người Mỹ rộng rãi thật, nho còn đẹp thế nầy mà đã cho vào hái mót.” Thằng Út nhà tôi thích quá, vui như sáo . Bụng đói và khát mà được ở giữa vườn nho thì khỏi chê vào đâu. Nó ham hố ăn ngấu nghiến không ngừng nghỉ, những trái nho chín mọng, ngọt lịm cứ liên tiếp ngốn vào mồm. Được một lúc, bỗng cu cậu ôm bụng, mặt tái xanh, ngã quỵ xuống gốc nho, mắt trợn trừng. Ông Mục sư hoảng hốt vội vàng vác nó lên vai định đưa vào phòng người coi vườn cấp cứu, chợt nó mữa thốc mữa tháo trên ngực áo ông, rồi từ trong quần shorts của nó chảy dầm dề phân lỏng , tuôn cả trên lưng áo của vị mục sư khả kính. Sau khi ộc ra hết cả ký lô nho đã lên men trong dạ dày, cu cậu khỏe lại ngay. Tội nghiệâp cho Mục sư phải đứng tắm ngoài trời bằng vòi nước tưới cây và mặc bộ đồ ướt lái xe về nhà. Tập trung số nho của gia đình hái được là 30 pounds, tiền phải trả là 60 đô, chúng tôi nhìn nhau ngỡ ngàng. Mục sư Hồ không nói rõ ràng là đi mua nho tự hái ngoài vườn, khiến chúng tôi cứ tưởng đi hái mót nho như ở quê nhà mót bắp , mót dưa. Hẳn nhiên là không có tiền để mua, nhưng bù lại , người nào cũng được đầy một bụng nho, chỉ trừ thằng Cu Út đã trả lại hết cho chủ vườn. Với tấm lòng hào hiệp, Mục sư chi ra 10 đô-la mua nho biếu chúng tôi mang về. Vị chủ chiên đã “tốn than còn tan lưỡi cày !” Hai tuần lễ sau, hội thiện nguyện giới thiệu vợ chồng tôi vào làm hãng may áo quần ở một thành phố khác, cách nhà nửa giờ chạy xe trên xa lộ. Nếu đi bằng xe bus phải qua nhiều trạm mất cả tiếng rưỡi đồng hồ. Chán nản và thất vọng, tôi không còn tinh thần để lập nghiệp trên vùng đất khô cằn đầy những cây xương rồng và khí hậu khắc nghiệt nầy. Dò la tin tức, tôi biết được một số bạn bè đi trước đã đến đây rồi bỏ đi. Tình cờ nhặt được một lá thư viết dở dang trong ngăn kéo bàn học, tôi giật mình nhận ra người gởi là Phan Anh Tuấn HO7, bạn cùng quê sang đây trước tôi hai tháng. Trong thư anh báo cho thân nhân sẽ bỏ tiểu bang nầy sang Florida. Theo ngày tháng trong thư, Tuấn rời khỏi căn apartment đúng mộït tuần lễ trước khi tôi tới. Như vậy, gia đình tôi là kẻ kế thừa căn nhà anh thuê nửa chừng. Tôi như người ở giữa đại dương mênh mông, bát ngát chẳng biết hướng nào tìm. Một hôm, bất ngờ tôi bắt gặp trong cuốn sổ tay có ghi số phôn của Huỳnh thị Phương Thanh là bạn học với em gái tôi hồi còn ở quê nhà. Hiện giờ gia đình Thanh đang định cư tại miền Bắc tiểu bang California. Nhờ điện thoại của gia đình thằng Mỹ con, tôi liên lạc ngay và may mắn gặp đượïc cả hai vợ chồng. Họ hứa sẵn sàng giúp đỡ, nếu gia đình tôi di chuyển đến thành phố San Jose. Như người sắp chết đuối chụp được phao, chúng tôi mừng vô hạn. Ông Mục sư Hồ rất cảm thông sự khó khăn của gia đình tôi ở cái đất “khỉ ho cò gáy nầy”. Và chính ông đã giúp tôi hoàn thành ý nguyện đi tìm một vùng đất khác. Phương tiện di chuyển là loại xe bus xuyên bang. Đúng hai mươi ngày kể từ khi đặt chân trên miền đất cực nam nước Mỹ, chúng tôi lại gánh gồng hành lý lên xe bus Greyhound thẳng đến quận hạt Santa Clara nằøm về hướng tây bắc Hoa Kỳ. * * * Vượt gần hai ngàn kí lô mết, qua một ngày một đêm, chuyến xe bus sau cùng đến thành phố San Jose vào trưa Chúa nhật. Vợ chồng Thanh đã có mặt lúc xe vừa cập bến, chúng tôi mừng rơi nước mắt. Căn nhà Thanh biệt lập, có rào gỗ chung quanh gồm năm phòng rộng rãi. Chủ nhà dành cho gia đình tôi một phòng trên lầu ở tạm, đợi đến ngày đầu tháng sẽ dọn vào một căn apartment hai phòng do người cậu của Thanh đứng tên mướn hộ. Chỉ còn một ngày nữa là chúng tôi dọn đến căn nhà thuê, bỗng người cậu báo tin chủ apartment hủy bỏ hợp đồng mướn nhà với lý do gia đình sáu người không thể ở hai phòng. Tôi vô cùng lúng túng. Thời gian ở đậu nhà Thanh không thể lâu hơn được nữa, mà tìm mướn nhà khác thì phải chờ đầu tháng sau. Lục tìm cầu may trong báo Việt ngữ mục nhà cho thuê, may mắn tôi phát hiện một căn apartment hai phòng còn trống, Thanh vội vàng điện thoại hẹn người quản lý cho tôi đến xem nhà. Từ thành phố Milpitas đến San Jose, tôi và thằng con trai lớn thay nhau chở trên chiếc xe đạp đòn dông không có ba-ga gắn phía sau. Người địa phương nhìn cha con tôi ôm nhau trên chiếc xe đạp với cặp mắt kinh dị. Đối với họ, có lẽ đây là hiện tượng lạ lùng đầu tiên mà họ mục kích. Chúng tôi vô tình đùa cợt với luật lệ đi đường ở Mỹ và gây khó chịu cho những người kỳ thị giới đồng tính luyến ái. Chúng tôi di chuyển như thế nhiều lần trên những con đường tấp nập xe hơi mà chưa lần nào gặp cảnh sát và cũng may mắn là không chạy lạc ra ngoài freeway. Sau nầy có ông bạn HO, còn chân ướt chân ráo như tôi, đi xe đạp bên rìa xa lộ bị gió cuốn hút ra giữa đường, dòng xe cán nát thân thể ông còn chiếc xe đạp bị văng trở lại vào lề đường. Khu apartment nằm gần đường Senter, phía sau là con suối cạn. Người thuê trước vừa dọn đi cách một ngày. Chúng tôi quyết định mướn căn apartment hai phòng nầy với gía 650 đô-la mỗi tháng.Tiền deposit cũng 650 đồng được ông chủ nhà là một bác sĩ Việt Nam cảm thông cho khất lại tháng sau mới nộp. Không chờ đợi chủ nhà quét dọn, sơn sửa mà vợ chồng, con cái tôi tự chà rửa phòng tắm, vách tường và bếp núc, chỉ yêu cầu chủ nhà kêu thợ giặt thảm mà thôi. Đêm đầu tiên vợ chồng tôi ở lại căn nhà mới thuê. Hai căn đối diện dảy nhà tôi đều là người Việt. Bà Chín Nam Bộ mang biếu chúng tôi một tấm đắp cũ. Ông Bang Bắc Kỳ 54 cho bốn gói mỳ ăn liền, hai cái chén và hai đôi đũa.Được sự giúp đỡ của hai người láng giềng trong cơn túng quẫn, lòng chúng tôi vô cùng cảm kích và củng cố thêm lập trường người Việt mới tị nạn chọn tiểu bang có đông đồng hương là cần thiết. Đêm đó, vợ chồng tôi ôm nhau ngủ trên sàn nhà với tấm đắp vừa làm chiếu vừa làm mền, cuộn tròn như cặp sâu trong trái kén mà xót xa nhớ về quê hương. Trước khi qua Mỹ, chúng tôi không ngờ lại có những ngày tháng gian truân đến thế. Người mới đến định cư cảm thấy đỡ cô đơn nhờ vào những nơi tập trung thường xuyên của đồng hương, như địa điểm cà phê bình dân ở trong khu chợ Senter, có tên rất thời thượng: Quán Cà-phê HO. Nơi đây được coi là đất tụ hội để tìm gặp bạn bè cũ, để học hỏi kinh nghiệm của những người đi trước, để được giới thiệu các loại dịch vụ cần thiết như bán xe, mua xe ... và để biết tin tức ở quê nhà. Một hôm, tôi đạp xe lần mò tìm đến cà phê HO. Một quán giải khát bình dân đúng nghĩa, bàn ghế đơn sơ, khách hàng mộïc mạc, đậm đà tình quê hương. Kêu ly cà phê đen ngồi nhâm nhi trong một góc, tôi nghe rầm rì những mẩu đối thoại với nhau : - “Nầy, đằng ấy còn nhớ thằng H. không ? Nó tù cùng trại với bọn mình đó. Vợ nó vượt biên qua Mỹ hồi năm 82. Vừa rồi nó qua đợt HO 5, nghe nói ngày H. tới phi trường, cô vợ đến chúc mừng và trao cho nó một phong bì đựng 500 đô-la rồi quay lưng thản nhiên bước lên chiếc xe lộng lẫy có người chồng mới ngồi chờ sau tay lái. Lòng H tê tái. Một khắc sau, người đại diện hội thiện nguyện mời H. lên xe. Nhìn cảnh vật qua màn lệ mà H. tưởng bầu trời Mỹ quốc phủ lớp sương mờ. - “Sao chuyện xảy ra giống tiểu thuyết quá vậy. Ông qua đây lâu rồi mà có nghe tin tức gì về thằng R. cùng phố với bọn mình không?” - “Trên đất nước mênh mông nầy mà cậu tưởng như ở ngã ba Long Khánh của cậu đấy. Nó đi HO mấy ?” - “HO 6, ở quê mình đồn reo về chuyện vợ nó mới qua Hoa Kỳ chưa đầy năm mà đã bỏ chồng, bỏ con theo thằng triệu phú da đen. - “Ôi, cứ tưởng bở, bộ Mỹ nó khoái mấy bà vợ đói cơm lâu ngày từ cái đất nước sống trên rẫy bắp, đồi sắn sao ? Đó chẳng qua là đòn tuyên truyền của VC bôi xấu anh em HO mình đấy. Cậu nhớ hồi bọn mình còn trong tù, mấy anh Vẹm áo vàng tuyên bố : “Số đàn bà con gái chạy qua Mõỹ bị “bè lũ đế quốc” dồn vào một nơi làm điếm cho lính GI. Mấy anh chồng đau quá, kéo nhau biểu tình đòi trả về Việt Nam, nhưng Đảng và nhà nước ta đâu có chịu nhận...” Bỗng, bàn bên kia tiếng vỗ tay nổi lên đôm đốp, ông bạn đang nói chuyện vội cầm ly cà-phê chạy vut qua đó thu thập tin tức. Lát sau, quay về anh tường thuật lại : - “Anh chàng mặc áo xanh ngồi quay lưng là dân HO mới tới, hắn kể chuyêïn ngày “Liên Xô Vĩ đại” sụp đổ. Buổi họp hàng đêm của Hợp tác xã, bỗng dưng, lần đầu tiên anh được “đồng chí” chủ nhiệm mời lên ghế ngồi, anh từ tốn thưa : “Cho tôi được ngồi dưới đất như từ bao lâu nay, ngồi trên ghế không quen có ngày bị ngã.” Và một buổi sáng nọ,ï tên công an xã đột ngột đến nhà vồn vã mời anh thuốc hút, lại là hiện tượng lạ, thay vì chờ đợi bà vợ anh chạy sang quán bên kia đường mua vài điếu có cán mời cán bộ. Anh công an than thở : - “Mình vì cuộc sống, chứ làm cái ngành nầy bị đồng bào hiểu lầm rồi thêm thù ghét. Anh bạn “chơi” ngay : - “Dân hiểu lầm, đến khi họ biết họ hiểu lầm thì họ... bỏ sót, có sao đâu” ! anh bạn mượn câu “Giết lầm hơn bỏ sót” để nói kháy tên công an. Như thế đấy. Lần đầu tôi đến thăm tiệm cà phê HO, quả thật tiếng đồn không sai. Nơi đây được mệnh danh là “Hãng thông tấn Senter”. Nhờ người bạn mới quen tại quán cà phê HO giới thiệu cho tôi ông thầy “dạy lái xe tư gia”.Với giá giúp đỡ người đồng hương, ông thầy lấy công 250 đô tập cho từng người, đến khi đậu được bằng lái. Sau khi đưa cha con tôi đến DMV thi lấy bằng viết, ông cho thực tập ngồi sau tay lái, mỗi ngày vài tiếng đồng hồ trong vòng một tuần lễ. Thằng con lớn của tôi thi lần đầu là đậu ngay. Riêng tôi đã từng lái xe dodge, xe jeep gần chục năm trong quân đội thế mà qua lần thứ năm mới pass. Ông thầy dạy lái với khuôn mặt thảm nảo bắt tay tôi. Ông bảo : “Không phải chúc mừng anh đậu mà chúc mừng anh khỏi phải ghi tên vào trường dạy lái chính thức.” Luật thi lái xe ở Cali, cứ ba lần thi lái không đậu phải thi lại bằng viết và tiếp tục thi ba lần nữa. Thấy tay lái qúa yếu ,vị chủ khảo có thể bắt buộc thí sinh phải ghi tên học tại trường lái xe chuyên nghiệp. Hú hồn, nếu không, tôi phải mất bộn tiền và tốn thêm thời gian để tiếp tục học lái xe tại trường. Trước khi từ giã, tôi bắt tay ông thầy dạy lái, không phải ngỏ lời cảm ơn mà chúc mừng ông thoát được “của nợ” đã hành ông mất bảy lần lui tới Nha lộ vận. Nhờ kinh nghiệm chua chát về tôi mà sau nầy ông thầy tăng tiền dạy lái gấp đôi cho ông HO nào tự xưng mình lái xe lâu nhất và hay nhất ở Việt Nam. * * * Vợ tôi được bà láng giềng giới thiệu học nghề nấu ăn trên xe lunch, một phương tiện bán thức ăn lưu động tại các hãng xưởng. Sáng sớm bà chở giúp nhà tôi đến hãng IFCO, chiều về chịu khó lên xe bus. Dù học nghề, nhưng được chủ trả 30 đô mỗi ngày. Cuối ngày phải rửa xe, lau chùi các tủ kính, bếp nấu, tính ra còn khổ hơn người thợ chính. Lương trả cho cook chính mỗi ngày 80 đô , khi xe về đến bến là cook thảnh thơi lái xe về nhà. Vợ tôi làm suốt mười hai tiếng đồng hồ trên xe lunch, đã nhọc mệt mà chiều về còn phải đứng ngoài trời lạnh đón xe bus qua hai ba trạm. Vì vậy, tôi nghĩ đến chuyện mua xe, một mặt đưa đón vợ, một mặt cho con tôi có phương tiện đi làm. Một hôm, bất ngờ tôi nhận được thơ của Trần Chung, một thuộc cấp cũ gởi thơ thăm và có nhã ý lấy vé máy bay mời chúng tôi qua tham quan vùng Houston, nơi anh có ngôi chợ bán seafood. Anh còn đề nghị tôi nên chuyển gia đình qua vùng đó ở, anh sẵn sàng giúp đỡ “ông thầy”. Được tin đó, vợ chồng cô Thanh góp ý kiến là thay vì ông bạn cho tiền mua vé máy bay khứ hồi từ Cali sang Texas, chỉ xin họ cho mượn 2000 đô-la để mua chiếc xe, hầu có phương tiện cho cả nhà đi lại, rồi trả góp từng tháng một. Bà chủ chợ Trần Chung là bạn cùng quê với vợ tôi, ông chồng là nhân viên của tôi khi chưa mất nước, cả hai đều thân tình cả. Họ qua đây từ năm 79, có mấy cơ sở làm ăn vững vàng ở Houston . Nghe lời góp ý của Thanh, chúng tôi “hồ hởi” gọi điện thoại ngay. Cú phôn xuyên bang đối với gia đình đang ăn trợ cấp cũng xót xa lắm. Bà chủ chợ nhận điện thoại, nghe tiếng vợ tôi, bà vui mừng rối rít. Bà hỏi thăm đủ người, nào là bà nội ông ngoại, các bà dì ông dượng của bà ấy rồi đến láng giềng, cả cái nhà thờ của ông chồng để lại cho đứa cháu kêu bác ruột có sửa sang đẹp đẽ không, ngày chạp mả hàng năm đều gởi tiền về mà nó tổ chức có rình rang không ?.. Chờ cho bà bạn cũ nghỉ lấy hơi, vợ tôi mới dám mở lời mượn tiền mua xe. Bà bạn bảo : - “Ồ tiếc chưa, phải chi gia đình bồ qua đây trúng mùa xuân, lúc ấy chợ mình đông khách hàng lắm, gặp mùa nầy chợ nào cũng ế ẩm cả. Để mình hội ý với ông xã rồi trả lời bồ sau. Phôn cúp, mất trọn một giờ gọi long-distance, nhưng niềm hy vọng chỉ còn năm mươi phần trăm ở người chồng. Nhà tôi thao thức chờ đợi tiếng phôn “độ trì” từ thành phố Houston, nhưng vẫn im re. Tôi nghĩ có thể bạn mình bận rộn công việc ở chợ nên đã quên khuấy lời khẩn khoản của vợ mình. Vì vậy, tôi đánh liều gọi điện qua để được trả lời dứt khoát. Lần nầy tôi không nghe giọng líu lo của vợ chồng bạn tôi mà chỉ nghe tiếng nói chắc nịch của tổng đài báo cho biết số điện thoại đó không xài nữa. Vợ chồng Thanh sống trong xã hội Mỹ đã mười năm mà đưa ý kiến mượn tiền là đùa cợt trên sự đau khổ của người chưa am tường đời sống thực tế ở đây. Không biết nên trách người hay tội nghiệp cho bản thân mình. Vợ tôi nước mắt đầm đìa, khóc vì tủi phận. Bà kể lể : - “Ngày trước nó đi buôn quân tiếp vụ bị quân cảnh hốt, chạy tới trường mình đang dạy đòi mượn tiền, phải bỏ lớp về nhà vét sạch đưa cho nó, giờ trong cơn túng quẫn nơi quê người nó lại làm ngơ”. Tôi sùng máu nạt vợ : - “Bà có điên không mà kể lể ngược đời. Hồi đó bà cho nó mượn nhiều lắm là năm chục ngàn, còn ở đây hai ngàn đô-la tính ra trên hai mươi triệu đồng Việt Nam đó, sợ bà mới qua không trả nổi nên người ta làm lơ là đúng thôi”. Bà chủ xe lunch muốn giữ vợ tôi làm với bà lâu dài nên cho chúng tôi mượn 1050 đô mua chiếc xe Supra hai cửa, đời 81 bị tông móp bên hông tay lái. Con tôi chê xe bị tai nạn trốc sơn loang lổ. Tôi giải thích : - “Giai đọan đầu khó khăn, mình cần xe đi, đâu cần xe đẹp. Người ta nói hiệu xe nầy bền lắm, đi cả chục năm nữa vẫn còn tốt chán, vả lại, nó vừa với túi tiền của gia đình mình”. Nghe tôi sắm xe, nhiều người khuyên mới có bằng lái phải mua bảo hiểm hai chiều. Nghe rồi chỉ ậm ừ chứ tôi biết cóc gì về chiều với hướng. Sau khi làm xong thủ tục ở cơ quan lộ vận, tôi vội đến văn phòng bảo hiểm của ông chủ người Việt, nguyên là bạn học với vợ tôi. Vị chuyên viên đầy kinh nghiệm nầy khuyên tôi chỉ nên mua insurance một chiều rưỡi thôi, lý do xe cũ và tiết kiệm tiền. Anh giải thích :“Bảo hiểm chiều rưỡi là khi xe anh tông xe người ta thì hãng bảo hiểm của tôi sẽ bồi thường cho xe phía bên kia và nếu xui xẻo xe người khác đụng xe anh mà xe họ không mua insurance, thì bảo hiểm của tôi sẽ đền cho anh”. Tôi đồng ý. Tính tới tính lui trên máy điện toán, anh bạn kéo ra tờ giấy dài như lá sớ . Phần tổng cộng một năm bảo hiểm phải đóng 1250 đô. Chân tay rã rời, tôi thì thào bên tai vị chuyên viên bảo hiểm : “Tiền mua chiếc xe có 1050 đô, sao bảo hiểm tới 1250 đô” ? Anh ta ôn tồn giải thích : - “ Hiệu Supra là loại xe thể thao, cha con anh mới có bằng lái và cậu con trai hai mươi hai tuổi, đó là ba yếu tố khiến tiền mua bảo hiểm phải cao. Tuy nhiên, không phải đóng một lần mà có thể đóng từng tháng một cộng thêm tiền lời.”Tôi ôm đầu ra về thông báo với bà xã. Ngày hôm sau nhà tôi mượn về 150 đô-la đóng tháng bảo hiểm đầu tiên. Buổi sáng, tôi đưa vợ đi làm từ lúc bốn giờ, rồi vội vã quanh về cho hai con lớn đi làm hãng điện tử. Cái job điện tử nghe kêu thật. Ông bà ngoại đọc thơ thấy cháu mình mới qua Mỹ mà sao học hành giỏi quá, chưa được bao lâu mà đã đạt được cái nghề điện tử !Một giờ 3 đô, ngày làm tám tiếng vị chi là 24 đô. Một tháng hai muơi ngày tính ra làm được 480 đô chưa trừ thuế. Ông bà ngoại bên nhà nhẩm tính lương mỗi đứa cháu hàng tháng gần năm triệu bạc Việt nam. Con gái, chàng rể rồi đây sẽ giàu to ở xứ người, ông bà mừng rơn đi khoe cùng bà con láng giềng. Giàu đâu chưa thấy, nhưng tiền trợ cấp vừa đúng sáu tháng là bị cắt bớt, chỉ còn cái check 650 đô với 108 đồng food stamps cho mỗi tháng dành cho cha mẹ và đứa con út dưới mười tám tuổi. Từ ngày về đây, gia đình tôi ở tầng lầu, tầng dưới vắng vẻ không người ở, nhưng đêm đến lại thường nghe tiếng khua động. Những tiếng cộp cộp, bình bịch như có người đục vách, tiếng lào xào như tiếng nước chảy. Vợ tôi thầm thì : “Ma ông à”. Tôi áp nạp : “Ngủ đi, mai còn đi làm, thợ sửa nhà đấy. Ở Mỹ nguời ta làm việc đâu kể ngày đêm.” Lâu ngày rồi cũng quen tai, vả lại, những tiếng động đó cũng không xảy ra thường xuyên. Buổi sáng đi làm sớm, chúng tôi hay bắt gặp cặp nam nữ thiếu niên người Á đông ngồi ôm nhau trên ban-công tầng gác đối diện. Bà xã tôi thắc mắc : “Con nhà ai mà trốn cha trốn mẹ yêu đương sớm thế ?” Sáng nay như thường lệ, đúng bốn giờ sáng là tôi phải chở vợ đi làm. Xe vừa ra khỏi đường hẻm, chợt một cảnh sát mặc sắc phục chận lại. Ông ra lệnh vợ chồng tôi ra khỏi xe, đồng thời đưa hai tay lên đầu. Họ đẩy chúng tôi úp mặt trên nắp ca-pô xe, rồi bắt đầu lục soát trên người, trong xe. Xong, họ chụp hình cả người lẫn xe. Sau cùng họ hỏi chúng tôi đi đâu. Câu trả lời rất rõ ràng của tôi là đi làm. Ông ta khoát tay bảo lên xe, không cho bật đèn sáng. Ra khỏi khu vực, chúng tôi mới thấy xe cảnh sát đậu rải rác trên những con lộ gần khu chung cư của chúng tôi ở. Khi tôi quay về, mọi người trong khu chung cư hầu như đều thức dậy, kẻ đứng lấp ló trong cửa, người ra hẳn ngoài sân, mắt hướng về căn apartment của tôi. Cảnh sát mặc thường phục đang lục soát tầng dưới nhà, một số khác, vũ khí cầm tay xục xạo dọc theo con suối cạn. Ông Bang láng giềng đang đứng hút thuốc trước mái hiên ngoắc tôi lại nói nhỏ vào tai: “Một ổ cướp có súng, khiếp thật. Chúng nó đục vách nhét hàng điện tử lấy trộm được, khoét sàn bên trong tủ đựng áo quần bỏ cả vũ khí vào trong đó. Tôi đếm được mười thằng, toàn dân Á châu bị còng liệng lên xe, nghe đâu một thằng chạy thoát. Cặp trai gái thường ôm nhau ngồi trên ban-công lúc về sáng cũng có mặt trong số đó. Hàng điện tử chúng cướp ở đâu mà nhiều đến khiếp, chất đầy một xe van, vậy mà chưa hết, cảnh sát còn tiếp tục tháo vách lục tìm.” Tôi thật sự bàng hoàng. Từ chỗ ngạc nhiên đến lo sợ. Mấy tháng trời sống trên hang kiến lửa mà chẳng hay biết gì cả. Xế trưa, một cảnh sát Mỹ gốcViệt đến nhà tôi. Ông ấy hỏi : - “Cái nhóm băng đảng ở tầng dưới hoạt động đã gần một năm rồi mà gia đình ông không hay biết gì sao?” Tôi trung thực trả lời : -“Chúng tôi là những người tỵ nạn mới sang , thuê căn nhà nầy chưa đầy bảy tháng.” Ông cảnh sát nhìn tôi một chặp lâu như để dò xét rồi tiếp tục tra vấn : -“Bảy tháng sống ở đây, ông không phát hiện được một hiện tượng nào khác lạ?” Tôi thẳng thắn : -“Chúng tôi bận rộn suốt ngày, hết chỗ làm part time rồi đến trường học, thì giờ đâu mà để ý đến những sinh hoạt của người khác.” Khi ông cảnh sát đi rồi tôi mới giật mình. Tay nầy nghi mình bao che hoặc tiếp tay cho bọn cướp. Trái lại bọn cướp nhìn tôi như là mật báo viên. Hang ổ bị phá vỡ, tự nó đã chĩa mũi dùi vào kẻ ở tầng trên. Đúng là một cổ hai tròng ! Chiều tối cùng ngày, lực lượng FBI lại đột nhập vào căn gác đối diện nhà tôi ,bắt thêm được ba tên nữa và tịch thu ba khẩu súng ngắn. Đêm đó, tôi bàn với vợ và hai đứa con lớn là phải dọn nhà đi gấp, chần chờ là chúng đến nhà “phơ” hết cả đám. Đồng đảng chắc chắn sẽ nghi gia đình mình mật báo cho lực lượng an ninh hành tung của chúng. Nghe tôi phân tích, mọi người đều sợ xanh máu mặt. Chỉ trong vòng hai ngày là chúng tôi lặng lẽ dọn nhà không báo trước. Ra đi âm thầm trong đêm, bỏ lại tất cả những vật dụng nặng nề, bỏ cả tiền deposit, nghĩa là bỏ của chạy lấy người. * * * Mấy tháng sau, nhân cuối tuần, tôi ghé vào quán cà-phê HO để kiếm tờ báo Việt ngữ, bất ngờ gặp người bạn láng giềng hồi ở apartment của ông bác sĩ. Ông Bang bắt tay tôi mừng rỡ, nói : - Ông may mắn thật. - Chuyện gì thế ? tôi ngạc nhiên hỏi. Bang thì thầm : “Ông dọn nhà đi là có cặp vợ chồng già và đứa cháu nhỏ đến mướn ngay. Người vợ bị bệnh thần kinh tê liệt. Ông biết không, đúng một tuần lễ, vào nửa đêm, bọn chúng xông vào căn gác ông ở cũ gặp người mướn mới, hỏi ông chồng : - Các người mướn nhà nầy bao lâu ? - Chúng tôi đến đây chưa đầy tuần lễ, ông cụ trả lời. - Mấùy người có biết gia đình người mướn trước dời đi đâu không ? - Già cả lại bệnh hoạn, tụi tôi làm sao biết được. Chúng kéo bà lão tê liệt rớt xuống sàn nhà, giật tấm đắp xem mặt thằng nhỏ đang ngủ, mở cửa tủ áo quần lục soát, xong chúng nhìn mặt từng người trong nhà một lần chót rồi vội vã ra xe đang nổ máy chờ. Sáng hôm sau ông già kể lại cho hàng xóm nghe sự việc đêm qua mà chẳng biết chuyện gì đã xảy ra trước kia trong nhà ông đang ở.” Ông Bang nhìn tôi với ánh mắt như ngưỡng mộ một vị anh hùng, tiếp : - “Bà con cả khu apartment đều phục ông là người can đảm . Nói không phải chỗ xin ông bỏ qua cho, chỉ có người cộng tác viên gan lì như ông mới dám đưa gia đình đến sống trà trộn với bọn cướp. Mà phải có người như ông may ra xã hội nầy mới diệt hết được những băng đảng tôị phạm. Từ ngày tiểu trừ được bọn cướp, chúng tôi mới thở phào nhẹ nhõm và luôn luôn nhớ ơn ông.” Nghe đến đó, tôi sợ tháo mồ hôi. Chính những người bạn láng giềng còn nghi tôi là người của FBI, huống hồ bọn cướp làm sao nghĩ khác đi được ! Và tôi tự nhủ sẽ không bao giờ trở lại cái khu “Thông Tấn Xã Senter” nầy nữa. Đến đấy biết đâu, chẳng có ngày mang họa vào thân !
|