Đề cập sơ lược đến lịch sử dân tộc; khởi từ thời Hồng Bàng cho đến nhà hậu Lê với vua Lê Lợi...
Ngày xưa không mấy xa xưa Ngày tôi chưa lớn cũng chưa biết buồn Chẳng buồn chiều hạ mưa tuôn Chỉ riêng đôi mắt mẹ buồn sang thu Ngày xưa đông đến sương mù Hết đông vui nhộn mỗi mùa xuân qua Giãi dầu giông bão nắng mưa Đong đưa chiếc võng năm xưa mỗi chiều Mẹ ru trong gió hiu hiu Lời ru trong cõi tiêu điều gian nan Giọng ru trong tiếng võ vàng Hôm nay như vẫn ẩn tàng trong tôi Ru tôi từ thuở nằm nôi Đến khi khôn lớn thành người Việt Nam Việt Nam- Mẹ bảo Việt Nam Việt Nam Bách Việt họ hàng chi tông Bách Việt con cháu Thần Nông Cùng trong một giống Tiên Rồng mà ra Bách Việt trăm họ một nhà Thời xưa Âu Việt sau là Quảng Tây Dương Việt ắt đất Giang Tây Ngày xưa U Việt sau này Triết Giang Quảng Đông: Đông Việt rõ ràng Mân Việt: Phúc Kiến nối giang san nhà Lạc Việt tức bắc Việt ta Việt Thường: Thanh-Nghệ-Tĩnh là hôm nay Năm mươi thế kỷ cách nay Dần dà đất nước về tay người Tàu Mẹ ru trong tiếng thương đau Mẹ thương Bách Việt mất nhau phũ phàng - Việt Nam; mẹ bảo Việt Nam Việt Nam sau gọi Văn Lang, Hồng Bàng Văn Lang với họ Hồng Bàng Hồng Bàng dựng nước Văn Lang: Vua Hùng Văn Lang mười tám đời Hùng Một thời con Lạc cháu Hồng hoan ca Một thời non nước thái hòa Văn minh, văn hóa khởi đà từ đây Yêu thương, đùm bọc, xum vầy Yêu thương như việc: Giây, cây, cau, trầu Ẩn trong sự tích trầu cau Sau thành tục lệ ăn trầu nhuộm răng Con ơi có nhớ hay chăng Cũng trong huyền sử Văn Lang, vua Hùng Ta còn sự tích bánh chưng Mặt trời, trái đất: Bánh chưng, bánh dày Lưu truyền cho đến hôm nay Khúc quanh lịch sử sau ngay thời này Tổ tiên Bách Việt loay hoay Loay hoay đoàn kết để xoay cuộc thời Thế là Âu Lạc ra đời Hùng Vương hết nghiệp đến thời Thục lên (*)
(*) Văn Lang nhà Thục và vua An Dương Vương 257-207 trước Tây lịch (ttl). Đóng đô ở đất Phúc Yên (Phong Khê)
Cổ Loa được dựng để yên sơn hà Vì Tần xâm chiếm nước ta Tần không thắng được chúng đà lui binh Bách Việt tái thống nhất mình Triệu Đà dựng nghiệp dấy binh ngập trời Thế là Nam Việt ra đời Một trời, một đất, một thời mênh mông Quảng Tây, bắc Việt, Quảng Đông Tuy chưa đủ đất cha ông giống nòi Nhưng là nước Việt hẳn hòi Đến khi Tần phải vào thời cáo chung Lưu Bang, Hạng Võ tranh hùng Lưu Bang thắng Hạng vẫy vùng bắc phương Nam Việt với Triệu Vũ Vương Khởi suy từ buổi Vũ Vương băng hà Hán xua quân đánh nước ta Nước ta tể tướng Lữ Gia kiên cường Nhưng không chống nổi bạo cường Vua, tôi bị giết quê hương thuộc Tàu (*)
(*) Văn Lang nhà Triệu 207-111 ttl Thời kỳ bắc thuộc lần thứ nhất từ năm 111-39 ttl Con ơi khởi sự thương đau Ngàn năm bắc thuộc khởi đầu từ đây Hơn trăm năm trước lịch Tây Đau thương, oan nghiệt đắng cay cho mình Cái thằng Tô Định yêu tinh Nó làm Thái thú đất mình gian tham Gian tham, ác độc, bạo tàn Thế nên Thi Sách mưu toan dựng cờ Nhưng ông chẳng đặng thời cơ Bị giặc bắt giết, mưu cơ không thành Vợ ông: Trưng Trắc xuân xanh Cùng em, Trưng Nhị dấy thành động binh Tô Định thất vía hoảng kinh Nó cùng bè lũ yêu tinh tan tành Hai Bà cứu nước công thành Đóng đô ở đất kinh thành Mê Linh (*)
(*) Hai bà Trưng: 40-43 stl. Hai Bà ở tại ngôi được gần hai năm.
Một năm đất nước yên bình Nào ngờ Đông Hán xua binh đánh mình Mã Viện là tướng cầm binh Nó bao vây đất Mê Linh đánh bà Thế cô, lực cạn quân ta Hai Bà thua trận, nước nhà tan hoang Trầm mình khi đến Hát Giang Trưng Vương liệt nữ danh vang một trời Hò ơi con hỡi, con ơi Thế là non nước tái hồi gian nan (*) (*) Thời kỳ Bắc thuộc lần thứ hai: 43-544 st
Dân ta xuống biển lên ngàn Để tìm châu báu bạc vàng mà dâng Dâng cho cái lũ ma quân Để thằng Mã Viện về dâng Hán triều Con ơi non nước tiêu điều Suốt hai thế kỷ Hán triều trị ta Chúng mưu diệt chủng dân ta(*)
(*)Đồng trụ chiết, Giao Chỉ diệt.
Chúng mưu đồng hoá nước ta với Tàu Trầm luân, tang tóc, bể dâu Tiếng than dân Việt niềm đau của mình Nhưng mưu chúng dệt chửa thành Hán triều tan rã; tưởng lành cho ta Cục diện Tam quốc bày ra Đông Ngô, Thục, Nguỵ chia ba nước Tàu Dân ta thống khổ thương đau Máu xương tang tóc bể dâu trội phần Đông Ngô nối tiếp Hán, Tần Giữ nguyên chánh sách nô dân nước mình Nữ hùng họ Triệu tên Trinh Cùng anh: Quốc Việt dấy binh phạt Tàu Cỡi voi xuất trận đi đầu Đánh cho bọn chúng về Tàu mấy phen Nhưng Ngô vẫn giữ mộng hèn Truyền cho Lục Dận, một tên bạo tàn Binh đông, tướng dữ dẫn sang Nhuỵ Kiều nữ tướng hiên ngang vẫy vùng Quyết là giữ lấy non sông Nhưng không chống nổi thế công giặc thù Hờn này mang đến thiên thu Bà hy sinh bởi quân thù Đông Ngô(*) (*) Cuộc khởi nghĩa của Bà Triệu: 248 st
Con ơi một mảnh cơ đồ Bao nhiêu thế kỷ tựa hồ diệt vong Mẹ tri mối hận quốc vong Người mình giống Việt long đong bởi Tàu Đến thời Nam-Bắc bên Tàu Nước ta vẫn cảnh thương đau tủi hờn Có người họ Lý tên Bôn (*)
(*) Lý Bôn khởi nghĩa năm 541. Chấm dứt thời kỳ Bắc thuộc lần thứ hai. Nước ta được tự chủ từ năm 544-602 stl
Anh hùng đứng dậy rửa hờn quê hương Đánh tan lũ giặc nhà Lương Dẹp yên Lâm Ấp biên cương thu hồi Vạn Xuân: Tên nước một thời Minh quân Nam Đế, vua, tôi một lòng An dân thái quốc những mong Xây chùa dựng điện nối công nhân hiền Kiên cường nối nghiệp tổ tiên Giang sơn một mối, Rồng Tiên một nhà Một năm thịnh trị hoan ca Một năm tự chủ, vua ta, quan mình Những đâu khói lửa đao binh Giặc thù phương bắc tướng, binh dẫn vào Chúng gieo máu lửa thương đau Vua, tôi nước Vạn lao đao bởi thù Sáu năm mai phục chiến khu Việt Vương họ Triệu rửa thù quê hương (*)
(*) Năm 544, Lý Nam Đế lên ngôi, chưa đầy một năm thì giặc nhà Lương lại sang đánh. Ông thua nhiều trận, sắp mất nước. Ông giao binh cho tả tướng quân Triệu Quang Phục. Lý Nam Đế mất; Triệu Quang Phục đánh bại quân địch và lên ngôi vua. Cháu của Lý Nam Đế là Lý Phật Tử không phục. Nội chiến xảy ra. Vẫn thời đất bắc nhà Lương Loạn ly đến mất nghiệp vương đế Tàu Nhà Trần nối tiếp theo sau Vạn Xuân thoát cảnh quan Tàu, dân ta Nhưng là nội chiến xảy ra Việt Vương thua trận, khởi đà quốc suy (*)
(*) Lý Phật Tử đầu hàng nhà Tuỳ. Mở đầu cho thời kỳ Bắc thuộc lần thứ ba: 602-938 stl Phật Tử họ Lý trị vì Nước ta bị mất bởi vì vua suy Bỉ cực tái diễn bởi Tuỳ Mười lăm năm hậu Tuỳ suy đến Đường Suốt ba thế kỷ đau thương Suốt ba thế kỷ đoạn trường dân Nam Đường cai trị nước An Nam Ác ôn, quỷ quyệt gian tham khôn cùng Con ơi đất nước khốn cùng Bao nhiêu nghĩa sĩ, anh hùng đứng lên Đánh tan lũ giặc mấy phen Như Mai Hắc Đế vùng lên diệt Tàu (722 stl) Thằng Quang Sở Khách về Tàu Nước ta lại được ít lâu an bình Đường say giấc mộng nam chinh Sai Dương Tư Húc kéo binh phạt mình Cùng Quang Sở Khách điều binh Đường-Ngu; ngu thật với mình với ta Con ơi xã tắc sơn hà Vua ta bại trận, nước ta thuộc Tàu Thuộc Tàu: Ôi! Lại thuộc Tàu Nước mình mảnh đất thương đau dặm trường Đến năm Đai Lịch nhà Đường Có người hảo hớn can cường vùng lên Phùng Hưng tên gọi thương quen (*)
(*)Bố Cái Đại Vương791 stl
Ông cho lũ phỉ teng beng về Tàu Thái lai non nước đồng bào Yên vui xum họp cùng nhau một nhà Một lòng kiến quốc bảo gia Phùng Hưng một đấng quả là minh quân Chăn dân với cả lòng nhân Đại Vương Bố Cái minh quân băng hà Phùng An nối nghiệp vua cha Nhưng không giữ nổi sơn hà An Nam Đường cho quân đến dụ hàng Phùng An nhu nhược đầu hàng Triệu Xương Con ơi tái cảnh đau thương Con ơi có xót quê hương của mình Một dân tộc với tử sinh Một ngàn năm với chiến chinh chống thù Hiểm nguy nhất vẫn Đường-Ngu Chúng dùng văn hóa xây tù nước Nam Chúng nuôi mộng huỷ An Nam Chúng nuôi mộng biến người Nam thành Tàu Nhưng rồi chẳng đặng vào đâu Suốt bao thế kỷ vẫn Tàu vẫn ta Cuối Đường loạn lạc xảy ra Nguy ra cho giặc, may ra cho mình
Khúc Thừa Dụ dấy nghiệp binh (906-907) Đánh cho lũ phỉ hoảng kinh tời bời Tử, Sinh, yểu, thọ tại trời Một năm Thừa Dụ tại ngôi trị vì Nhưng là sao sáng một vì Khai thời tự trị, tôn ty tự mình Khúc Hạo nối nghiệp cha mình (907-917) Giữ yên bờ cõi, dân tình an cư Minh quân Khúc Hạo nhân từ Ở thời đất bắc họ Chu diệt Đường Lập ra giòng dõi hậu Lương Vẫn nuôi mộng chiếm quê hương Lạc Hồng Ngàn đời mộng chúng chẳng xong Ngàn năm đô hộ đã xong một thời Con ơi hùng sử một thời Con ơi bi sử một trời đau thương Ngàn năm lũ giặc nhiễu nhương Chỉ còn Lạc Việt, Việt Thường có nhau Nước ta Bách Việt là đâu Đất mình vẫn trải ở Tàu hôm nay Bao nhiêu thế kỷ cách nay Nhưng mà vẫn mới như ngày hôm qua Vẫn ghi trong dạ dân ta Vẫn chờ ngày nổi phong ba lôi đình Để đòi lại đất của mình Để thôi nhược tiểu như mình hôm nay Thế thời vận nước chẳng may Quảng Châu, vùng đất trên tay Lương triều Lưu Nham phản lại Lương triều Chiếm vùng đất ấy lập triều đình riêng Lập ra Nam Hán một miền Lũ này là mối oan khiên cho mình Lý Tiến với Lương Khắc Trinh Hai thằng chiếm giữ Tống Bình nước ta Hán triều bắt giữ vua ta Tướng Dương Diên Nghệ quả là trung quân (931-937) Ông nuôi chí với ba quân Vùng lên một trận đuổi quân hung tàn Nối trang lịch sử vẻ vang Vua quan nhà Hán như tan cả hồn Cho quân tiếp viện rửa hờn Tướng giặc: Trần Bảo xác chôn quê mình Hán triều thất vía hoảng kinh Nước ta lại được thái bình dân an Nhưng Kiều Công Tiễn phản thần Giết Dương Diên Nghệ vương quân đoạt quyền Kiều là tuỳ tướng đương quyền Rể Dương Diên Nghệ: Ngô Quyền dấy quân (938) Dấy quân diệt kẻ phản thần Kiều liền xin Hán cho quân đến nhà Ngô Quyền đoán biết phong ba Giết Kiều để chiếm Đại La kinh thành Rồi mau đối phó chiến tranh Chiến tranh chống Hán, chiến tranh giữ nhà Quyết tâm nối chí nhạc gia Quyết tâm bảo vệ san hà nước Nam Hoằng Thao dẫn thuỷ binh sang Còn vua cha trấn ở đàng Hải Môn (Quảng Đông) Sẵn sàng tiếp ứng cho con Hoằng Thao theo vịnh Hạ Long đánh vào Ngô Quyền dụ chúng đuổi vào Đến khi nước rút ào ào tấn công Hoằng Thao tháo chạy trên sông Tàu thuyền thủng đắm bởi chông bịt đồng Máu thù nhuộm đỏ dòng sông Xác thù chìm nổi khắp sông Bạch Đằng Hoằng Thao chết trận Bạch Đằng Vua Nam Hán khóc để rằng lui quân Ngô Quyền đại thắng Hán quân (*)
(*) Ngô Quyền đại thắng Hán quân năm 938 đã thật sự chấm dứt một ngàn năm đô hộ của giặc phương bắc. Mở thời tự chủ cho dân tộc. Mở thời tự chủ cho dân tộc nhà Xưng vương đóng ở Cổ Loa Năm năm đất nước thái hòa yên vui Ngô vương vắn số qua đời Tam Kha em vợ; cướp ngôi cháu mình Khai thời nội chiến đao binh Hăm hai năm lẻ điêu linh nước nhà Mười hai quân sứ một nhà Mười hai quân sứ trong nhà nước Nam Tổ tiên phò trợ nước Nam Ông Đinh Bộ Lĩnh dẹp tan quần hùng Chỉ trong mấy tháng vẫy vùng Sơn hà thống nhất trùng phùng quê hương Đinh Bộ Lĩnh: Vạn Thắng Vương (968-980) Nước Đại Cồ Việt; quân vương Tiên Hoàng Hoa Lư là đất cưu mang Hoa Lư cũng đất Tiên Hoàng đóng đô Giữ yên non nước cơ đồ Mười hai năm hậu cơ đồ Đinh tan Tướng quân thập đạo Lê Hoàn Lên ngôi để giữ giang san nước nhà Nhà Tiền Lê được mở ra (nhà tiền Lê 980-1009) Đại Hành hoàng đế quả là xứng danh Bình Chiêm, phá Tống công thành Chi Lăng chiến thắng vang danh một thời Hăm bốn năm ở tại ngôi Sơn hà xã tắc một thời an khang Khởi suy từ lúc vua băng Các hoàng, thái tử lăng xăng tranh giành Lê Long Đỉnh giết vua anh Phá tan sự nghiệp thanh danh Lê triều Thế là hậu Lý lập triều (1010-1225) Một triều bền vững với nhiều minh quân Sống thời tự chủ quân, thần Tống kiêng, Xiêm nể, Chiêm thần phục ta Thánh Tông vua Lý băng hà Nhân Tông bảy tuổi thay cha nối giòng Bên Tàu thời Tống Thần Tông Với Vương An Thạch nghênh ngông bạo tàn Mưu toan thôn tính nước Nam Vua ta biết được mưu toan của Tàu Sai hai tướng giỏi phạt Tàu Thường Kiệt, Tôn Đản: Hai đầu xuất binh Tôn Đản thống lãnh bộ binh Lý Thường Kiệt dẫn thuỷ binh tiến vào Đánh Tàu ngay tại đất Tàu (1075) Đánh cho chúng hết mưu cầu nhiễu nhương Ta tiên hạ thủ vi cường Biết mình, biết địch, biết nương thiên thời Vua quan nhà Tống tơi bời Vừa cay, vừa thẹn với người với ta Năm sau chúng tiến binh qua Tống, Chiêm, Chân Lạp kết ba đánh mình Hai năm vây bủa nước mình Cuối cùng chúng phải điều đình rút quân Bởi Lý Thường Kiệt đại thần Với thơ khích lệ dân, quân một lòng Bốn câu thơ dậy bể đông Nức lòng chiến sĩ, nức lòng dân Nam “Nước Nam là của vua Nam Sách trời đã định rõ ràng chẳng sai Quân xâm lăng trái ý trời Một phen thảm hại tời bời một phen” (*)
(*) Bàng Bá Lân dịch
Quả như tiếng sấm vang lên Bài thơ như triệu mũi tên chống thù Lưu truyền cho đến thiên thu Sáng ngời chính ngha chống thù cứu quê Thế rồi hậu Lý suy hề Nhà Trần dựng nghiệp ta hề vẻ vang (*)
(*) Nhà Trần 1225-1400. Nhà Trần thắng quân Mông cổ ba lần Lần thứ nhất:1257. Lần thứ hai: 1285. Lần thứ ba: 1288
Năm châu cũng phải ngỡ ngàng Bởi dân nước Việt ba lần thắng Mông Lần đầu với Trần Thái Tông Rồi sau liên tiếp Nhân Tông hai lần Khởi nghiệp Mông: Thiết Mộc Chân Vượt qua Vạn lý trường thành; Trung Hoa Vua quan nhà Tống xuýt xoa Đông Âu, trung Á cũng đà hàng Mông Vương quân các nước rúng lòng Giặc Mông như trận cuồng phong được đà Thành Cát Tư Hãn băng hà Cháu Hốt Tất Liệt; con A Loa Đài Chia nhau đánh chiếm khắp nơi Một nửa thế giới như rơi cả hồn Trung Hoa; nhà Tống phải vong Triều Tiên, Tây Tạng cũng trong cảnh tình Ba Lan, Hung phải mở thành Nga La Tư cũng dâng thành cho Mông Hẳn là một trận cuồng phong Thế mà Mông phải hết ngông bởi mình Ba lần tiến đánh nước mình Ba lần đại bại tan tành thảm thương Trần Quốc Tuấn: Hưng Đạo Vương Vân Đồn, Tây Kết, Chương Dương, Bạch Đằng Hàm Tử, Vạn Kiếp lừng danh Xác thù như núi xứng danh Lạc Hồng Toa Đô chết giữa binh đông Thoát Hoan phải rúc ống đồng mà đi Phàn Tiếp với Ô Mã Nhi Bị ta bắt sống trong khi rút về Sài Thung chột mắt chạy về Mông-Nguyên phải bỏ mộng hề chiếm ta Một lòng “sát Thát” quân ta Diên Hồng hội nghị quả là trứ danh Đại Vương Hưng Đạo xứng danh Anh Hùng dân tộc lưu danh muôn đời Hưng vong cũng tại bởi trời Nhà Trần hết nghiệp đến thời suy vi Tiếm ngôi bởi Hồ Quý Ly (1400-1407) Non sông tái cảnh lâm ly đoạn trường Nhà Minh được dịp nhiễu nhương Nối mưu thôn tính quê hương của mình Mượn danh đánh tiếng phò Trần Mộc Thạnh, Trương Phụ tướng quân Minh Tàu Dẫn binh hai ngả tiến vào Con ơi đất nước rơi vào tay Minh (1414-1427) Mười ba năm thuộc nhà Minh Sơn hà xã tắc điêu linh tủi hờn Địa linh nhân kiệt Lam Sơn Phất cờ khởi nghĩa rửa hờn quê hương Ông Lê Lợi: Bình Định Vương(*)
(*) Cuộc khởi nghĩa 10 năm của Lê Lợi 1418-1427
Đã chấm dứt thời đô hộ của giặc Minh và lập ra nhà hậu Lê: 1428- 1527. Đại thần Nguyễn Trãi phò vương đuổi thù Chí Linh dưỡng địa chiến khu Chi Lăng, Tuỵ Động ngàn thu lẫy lừng Mười năm khởi nghĩa oai hùng Liễu Thăng bị giết, Vương Thông đầu hàng Mộc Thạnh bao bận chạy làng Nước Nam linh địa ngổn ngang xác thù Lê Lai gương sáng ngàn thu Bình Ngô Đại Cáo; chứng từ vẻ vang Hậu Lê dựng nghiệp hiên ngang Với Lê Thái Tổ nối trang sử hùng Nối thời tự chủ non sông Nối giòng hào kiệt, nối công anh hùng…
Đông Hải |