Hai Bà Trưng (mất ngày mùng 6 tháng 2 năm Quý Mão 43) là tên gọi chung của Trưng Trắc (chữ Hán: 徵側) và Trưng Nhị (徵貳), hai chị em (nhiều tài liệu nói là sinh đôi) là anh hùng dân tộc của người Việt.
Hai Bà Trưng khởi binh chống lại quân Hán, lập ra một quốc gia với kinh đô tại Mê Linh và tự phong là nữ vương. Sau khi cuộc khởi nghĩa này bị quân Hán dưới sự chỉ huy của Mã Viện đánh bại, tục truyền rằng vì không muốn chịu khuất phục, hai Bà đã nhảy xuống sông tự tử. Đại Việt Sử ký Toàn thư coi Trưng Trắc là một vị vua trong lịch sử Việt Nam.
Tiểu sử Hai bà nguyên là họ Lạc, con gái của Lạc tướng huyện Mê Linh, Phong Châu. Mẹ hai bà là bà Man Thiện, theo truyền thuyết và thần tích bà là người làng Nam Nguyễn (Ba Vì, Hà Tây), có tên là Trần Thị Đoan, chồng mất sớm. Bà có công dạy hai chị em Trưng Trắc, Trưng Nhị giỏi võ, có tinh thần yêu nước, có chí lớn. Trưng Trắc là vợ của Thi Sách con trai Lạc tướng huyện Chu Diên.
Khi hai bà Trưng khởi nghĩa chống quân Hán, bà Man Thiện luôn luôn có mặt cùng các con bàn việc cơ mật. Bà mất trong thời gian chống Mã Viện. Nhân dân địa phương lập miếu thờ bà, gọi là Miếu Mèn, nay ở làng Nam Nguyễn, huyện Ba Vì, tỉnh Hà Tây vẫn còn ngôi mộ cổ của bà. Nhân dân gọi đó là Mả Dạ (tiếng Việt cổ gọi các cụ bà là "dạ").
Sự nghiệp Các Lạc tướng Mê Linh và Chu Diên có ý chống lại sự cai trị tàn bạo của Thái thú Tô Định. Định bèn bắt giết Thi Sách để trấn áp tinh thần người Việt. Tháng 2, năm Canh Tý (40), vì Tô Định dùng pháp luật trói buộc, lại thù Tô Định giết chồng mình, Trưng Trắc cùng với em gái là Trưng Nhị nổi binh đánh hãm trị sở ở châu. Tô Định chạy về nước. Các quận Nam Hải, Cửu Chân, Nhật Nam, Hợp Phố đều hưởng ứng. Hai bà lấy được 65 thành ở Lĩnh Nam. Trưng Trắc tự lập làm vua, xưng là Trưng Nữ Vương. Ngày 30 tháng 2 năm Tân Sửu (41), nhà Hán thấy bà xưng vương dấy quân đánh lấy các thành ấp, các quận biên thùy, nên hạ lệnh cho các quận Trường Sa, Hợp Phố và Giao Châu sắp sẵn xe thuyền, sửa sang cầu đường, thông các núi khe, chứa thóc lương, cho Mã Viện làm Phục Ba tướng quân, Phù Lạc hầu Lưu Long làm phó sang xâm lược.
Chi tiết:Chiến tranh chống nhà Hán của Hai Bà Trưng Tháng Giêng năm Nhâm Dần (42), Mã Viện tiến theo đường ven biển, san núi làm đường hơn nghìn dặm, đến Lãng Bạc (ở phía tây Tây Nhai của La Thành) đánh nhau với vua. Hai bà thấy thế giặc mạnh lắm, tự nghĩ quân mình ô hợp, sợ không chống nổi, lui quân về giữ Cấm Khê (sử chép là Kim Khê). Quân cũng cho vua là đàn bà, sợ không đánh nổi địch, bèn tan chạy. Năm Quý Mão (43), Hai Bà Trưng chống cự lại với quân nhà Hán, thế cô, bị thua, đều tử trận. Mã Viện đuổi theo đánh quân còn sót lại huyện Cư Phong thì tàn quân đầu hàng, Mã Viện bèn dựng cột đồng (tương truyền ở trên động Cổ Lâu châu Khâm) làm giới hạn cuối cùng của nhà Hán, và khắc lên đó dòng chữ thề: "Cột đồng gãy thì Giao Chỉ diệt" (Đồng trụ chiết, Giao Chỉ diệt). Từ đây, nước Việt lại thuộc quyền kiểm soát của nhà Hán. Người dân đã dựng đền thờ Trưng Nữ Vương ở xã Hát Giang, huyện Phúc Lộc (nay ở Hát Môn, huyện Phúc Thọ, tỉnh Hà Tây), và ở đất cũ thành Phiên Ngung cũng có.
Bà Trưng quê ở Châu Phong Giận người tham bạo thù chồng chẳng quên Chị em nặng một lời nguyền Phất cờ nương tử thay quyền tướng quân Ngàn tây nổi áng phong trần Ầm ầm binh mã xuống gần Long Biên Hồng quần nhẹ bước chinh yên Đuổi ngay Tô Định, dẹp yên biên thành Kinh kỳ đóng cõi Mê Linh Lĩnh Nam riêng một triều đình nước ta Ba thu gánh vác sơn hà Một là báo phục hai là Bá Vương Uy danh động tới Bắc Phương Hán sai Mã Viện lên đường tấn công Hồ Tây đua sức vẫy vùng Nữ nhi địch với anh hùng được sao! Cẩm Khê đến lúc hiểm nghèo
Hai Bà thất thế cùng liều với sông! Trước là nghĩa, sau là trung Kể trong lịch sử anh hùng ai hơn. Đền Thờ Hai Bà Trưng tại thôn Hạ Lôi-Mê Linh-Vĩnh Phúc (trích Đại Nam Quốc Sử diễn ca)
Dã tâm của quân xâm lược Năm 43, sau khi đàn áp xong cuộc khởi nghĩa của Hai Bà: Trưng Trắc, Trưng Nhị của người Việt ở Giao Chỉ, chỉ huy quân đội nhà Hán là Mã Viện đã cho binh lính thu hầu hết các trống đồng của người Việt, mà nguyên nhân chính là do Trống đồng vốn là biểu trưng văn hóa của người Việt từ thời lập nước Văn Lang, Mã Viện (cũng như các tướng xâm lược của nhà Minh sau này) có âm mưu thâm độc muốn xóa hết tất cả các di sản văn hóa của người Việt nhằm để tiến trình Hán hóa được thuận lợi hơn cũng như dập tắt các cuộc nổi dậy của người Việt về sau.
Mã Viện đã cho quân lính thu hầu hết trống đồng đem nấu chảy và đúc thành một chiếc cột đồng chôn xuống đất với câu "đồng trụ chiết, Giao Chỉ diệt" (cột đồng đổ, Giao Chỉ bị diệt). Tương truyền cột đồng được chôn tại lãnh thổ phía cực nam của đế chế Hán (tức cũng là phía cực nam của Giao Chỉ), tuy nhiên sau này người ta không thể xác minh được cột đồng nằm tại đâu. Có thuyết cho rằng cột đồng nằm tại quận Hợp Phố (phía đông nam Quảng Tây ngày nay), có giả thuyết lại cho rằng cột đồng nằm tại đèo Cù Mông (phía nam Bình Định ngày nay), vì đây là cực nam của quận Nhật Nam thuộc Hán.
Tương truyền có ghi trong một số sách rằng dù có lệnh của Mã Viện nhưng người dân Giao Chỉ bảo nhau khi đi ngang cột đồng ấy thì mỗi người ném 1 viên đá lâu ngày đã vùi lấp mất cột đồng Mã Viện nên ngày nay không thể xác định vị trí được nữa. Thế mới biết ý chí kiên cường của người dân Việt từ ngàn xưa dù bị đàn áp vẫn không giờ cam chịu khuất phục quân xâm lược từ phương Bắc.
|