Người Việt hay nói: Mỹ là thiên đường giới trẻ, địa ngục giới già.
Nay tôi đã vào cái tuổi giữa 70, câu nói này thật là thấm thía. Mỹ
có tất cả những sản phẩm dành cho thanh thiếu nhi: đồ chơi, phim ảnh,
máy chơi điện tử thính thị, khu giải trí có chủ đề (theme parks). Còn
đối với người già, thì chỉ có sự cô lập và nỗi cô. Căn bản nếp sống
của người Việt dựa vào gia đình, cộng đồng, và khi ta mất những cái đó,
ta mất đi một phần lớn cái tôi.
Khi còn sống ở Việt Nam , tôi không bao giờ nghĩ đến việc sinh sống tại
một nơi nào khác ngoài quê hương. Ta sống và chết nơi tiền nhân đã sống
và đã chết. Ta có thân nhân, giòng họ; ta có gia đình, có những miếu đền.
Một khi ta đã quen miền đất với mồ mả tổ tiên, ta sẽ không còn sợ tử
thần và cái chết. Nhưng tại Mỹ, lối sống cũ của chúng ta không còn nữa.
Chúng ta bị buộc phải ra đi khi cuộc chiến kết thúc vào năm 1975, và
chúng ta đã sống xa xứ từ lúc đó. Ngày nay, bạn bè và thân nhân của
chúng ta tản mạn khắp nơi trên thế giới.
Tại Mỹ, càng già càng mất mát nhiều – bạn bè, thân nhân, trí nhớ, khả
năng di chuyển, và ý nghĩ của chính mình. Chuông điện thoại kêu. Tôi
nhấc ống máy. Đây là bà tên-này-tên-nọ ở Los Angeles . Bà mắc bệnh tiểu
đường và mới bị cưa chân. Rồi chuông điện thoại lại reo nũa: Ông
tên-ni-tên-nớ ở Georgia bị ung thư phổi, chỉ còn sống khoảng vài tháng.
Ở Việt nam, chúng tôi đều là bạn thân. Nhưng với cái tuổi đời chồng chất
như tôi, tôi làm sao đến thăm họ được khi họ ở hàng ngàn cây số cách xa?
Làm sao ta tưởng tượng được đến việc gọi điện thoại cho người bạn thân
khi họ nằm chờ chết trong bệnh viện, để nói lời xin lỗi là không thể đến viếng
thăm lần cuối. Ấy vậy, tôi làm điều này mỗi tháng, buồn lắm.
Tôi và chồng tôi, chúng tôi dự định đi một chuyến du lịch Âu châu vào kỳ
hè tới đây. Chuyến đi này là chuyến đi cuối cùng, để nói lời giã biệt
thân nhân bè bạn. Chúng tôi biết là sau chuyến đi này, chúng tôi sẽ
không đi đây đi đó được nữa vì sức khỏe đã kém, sẽ không thấy mặt họ
nữa. Tôi gần như không bước xuống được cầu thang nhà vì đầu gối chân rất
đau. Nhà thì đã bán, giờ thì chúng tôi ở trong một chung cư có thang máy
vì đó là điều kiện duy nhất mà chúng tôi có thể sống độc lập không nhờ
vả đến ai bây giờ.
Điều mà tôi quan tâm nhất là trí nhớ suy sụp rất nhiều. Tôi là người giữ
gia phả của giòng họ, nhưng tất cả đều nằm ở trong đầu. Biết ai liên
quan với ai như thế nào trong họ là nghề đặc biệt của tôi, người con gái
trưởng trong nhà.. Nhưng không một đứa con nào của tôi biết được những
mối dây liên hệ gia đình trong gia tộc, ngay cả đến những người em của
chính tôi. Không có tôi, họ hàng thân thích sẽ trở thành kẻ xa lạ nếu
tình cờ gặp nhau trên đường phố. Tôi có thể nhớ đến được những bà con cô
dì chú bác ba đời của gia đình bên tôi và của cả bên chồng. Tôi phải
viết xuống trước khi trí nhớ tôi lụt hết.
Thỉnh thoảng vào buổi sáng khi thức dậy, tôi lặng nhìn cây cối ngoài phố
và tự hỏi tôi đang ở nơi nào. Đôi lúc, tôi đi sang khu chung cư kế cận,
nơi có một số mèo hoang, và cho chúng ăn những thức ăn thừa. Khi tôi cất
tiếng gọi, chúng nhận ra tôi và đổ xô lại. Bây giờ, chúng
là những niềm vui nhỏ của tôi.
Đương nhiên những ngày hạnh phúc nhất là những ngày con cháu đến thăm.
Nhưng chúng cũng có đời sống riêng, thỉnh thoảng chỉ đến chơi được một
lúc rồi về, tôi làm gì cho hết những khoảng thì giờ trống trải sau đó?
Mẹ tôi mất năm bà 97 tuổi, và mẹ chồng tôi qua đời lúc 95 tuổi, cả
hai người có sống chung trong một khu dưỡng lão nhiều năm. Tôi thường đi
xe buýt đến thăm hai bà mỗi ngày, ngay cả khi còn đi làm. Từ lúc đó tôi
đã biết cái thảm não của người già trên đất Mỹ, ngay khi tôi còn trẻ
trung mạnh khỏe. Các nhân viên điều dưỡng ở đó thường nói với tôi là hai
bà có phước lắm, thường có con cháu đến thăm. Tôi trả lời: "Đó là
lối sống của người Việt Nam ". Còn những người già khác, con cháu họ ít
đến. Tôi có nhớ một số bà lão, ngồi trên những chiếc xe đẩy, ngóng trông
con cháu hay người thân, ngày này qua ngày khác, nhưng chẳng thấy ai. Có
cả một bà cụ, cụ còn sống lâu hơn những người con trai; mỗi ngày bà vẫn
ngồi chờ trông mong hình bóng người con trai bước qua khung cửa. Thật tội
nghiệp khi người ta sống dai như vậy trong sự đơn chiếc!
Ở xứ Mỹ này, tuổi già đúng là tuổi lỡ làng, không được người
ta kính nể hay cho một chút gì quan trọng. Ở quê nhà, các ông già bà lão
thì được nể vì nhất, vì họ là những người chia xẻ túi khôn cùng kinh
nghiệm cho những người đi sau. Điều đó không có ở đây. Không ai muốn
nghe tiếng nói của người già. Họ cảm thấy bị cô lập ngoài vòng ranh giới
của đám con cháu Mỹ hóa của họ. Chúng cười ồ lên về nhiều thứ mà tôi
hoàn toàn không hiểu được. Mỹ đúng là một quốc gia của giới trẻ hơn là giới
già như tôi.
Vào những buổi chiều mùa đông, tôi ngồi nhìn những hàng cây trơ trụi lá,
tâm hồn lạc lõng. Tôi nghĩ về cái thế giới mà tôi đã biết, nay đã bay
xa, như làn khói hương trầm. Tôi nghĩ đến cố hương, đến những mùa lễ Tết
ở Saigon, đến những đám cưới, đám hỏi, đến những chuyến du lịch, những
lần tíu tít họp mặt gia đình, ai ai cũng có mặt, con nít chạy quanh,
người lớn ngồi nói chuyện đời tán gẫu, đàn bà con gái quây quần chung
lo việc bếp nước. Và tôi cảm thấy rất khao khát những ngày quá khứ xa xưa.
Nguyễn Đức Nguyên chuyển ngữ
Andrew Lam là một biên tập viên của NAM (New American Media) và cũng là tác giả cuốn Perfume Dreams: Reflection on the Vietnamese Diaspora (Heyday Books, 2005).
Cuốn sách này gần đây đoạt giải thưởng Beyond Margins 2006 của Trung Tâm Văn Bút Mỹ ( PEN American Center ). / Aging in a Foreign Land
|