Người Việt Trên Đất Mỹ |
Tác Giả: Bác sĩ Nguyễn Ý-Đức /Texas-Hoa Kỳ | |||
Chúa Nhật, 28 Tháng 2 Năm 2010 17:03 | |||
Hiệp Chủng Quốc Mỹ là đất hứa đối với nhiều triệu con người trên khắp thế giới khi họ bắt buộc phải rời bỏ quê hương chôn nhau cắt rốn của họ. Họ ra đi để tránh sự đàn áp khủng bố chính trị, giới hạn tôn giáo, tước bỏ quyền tự do căn bản của con người, áp đặt bởi các chế độ độc tài, độc đảng toàn trị. Từ năm 1975, nước Mỹ đã mở rộng cửa đón tiếp cả triệu người tỵ nạn chính trị từ miền Nam Việt Nam. Đây là số lượng cao nhất của những người tị nạn thuộc cùng một sắc dân được tiếp nhận vào Hoa Kỳ, một quốc gia mà dân chúng đa số được du nhập từ khắp nơi trên trái đất. I- Các hoàn cảnh đưa đến việc Người Việt Nam di tản tới Hoa Kỳ Theo kết quả cuộc thống kê dân số thực hiện năm 2007, số người Việt Nam hiện có trên đất Mỹ là 1,642,950 người, đứng hàng thứ ba sau người Trung Hoa, Phi Luật Tân. Đây là một con số nhẩy vọt khá nhanh. Quá phân nửa số trên một triệu người Việt tập trung ở các tiểu bang California, Texas. Trước năm 1975, chỉ có dăm ngàn người Việt sống trên đất Mỹ, mà hầu hết là vợ con các quân dân chính người Mỹ đã từng phục vụ ở miền Nam Việt Nam, hoặc du học sinh, nhân viên ngoại giao đoàn Việt Nam Cộng Hòa. Khi miền Nam Việt Nam sắp thất thủ thì một số người có liên hệ với chính quyền Hoa Kỳ được ưu tiên di tản, cộng thêm quân cán chánh Việt Nam Cộng Hòa có quen biết với tòa Đại sứ hoặc Bộ Tư Lệnh quân đội Mỹ tại Sài Gòn. Họ ra đi bằng máy bay. Sau đó một số khác chạy thoát bằng đường biển và được hạm đội đồng minh đón vớt ngoài hải phận Việt Nam. Với lo ngại sẽ có một cuộc tắm máu, trả thù bởi quân đội chiến thắng Cộng Sản, dân chúng đều tìm đủ mọi phương tiện ra đi. Đó là thời gian từ năm 1975 tới 1978. Từ 1978 đến 1982, tại Việt Nam có phong trào chống kiều dân người Trung Hoa nên một đợt di tản khác lại xẩy ra gồm cả người Việt lẫn người Hoa. Họ ra đi bằng những chiếc thuyền lớn nhỏ đủ loại và được mệnh danh là “Boat People”. Người ta tìm cách vượt biên, vượt biển ra đi, tới các quốc gia lân cận Việt Nam như Phi Luật Tân, Mã Lai, Hồng Kông, Thái Lan, Tân Gia Ba. Họ đi tìm sự sống trong cái chết, chỉ mong tới được bất cứ mảnh đất nào có tự do, dân chủ. Nhiều người, có khi cả gia đình, thiệt mạng trên biển cả vì bão tố, làm mồi cho cá mập, hoặc bị hải tặc cướp hiếp ngoài khơi. Tới đất liền, những người sống sót được đưa vào trong các trại tị nạn, sống trong lo âu, thiếu thốn chờ đợi ngày được nhận vào các quốc gia đệ tam. Diện cuối này còn được gọi là diện HO. Năm 1988, đích thân Tổng Thống Ronald Reagan đã ký ban hành Đạo luật giúp đỡ những cựu tù nhân cải tạo từ ba năm trở lên tới định cư tại Mỹ. Về tới nhà, họ tiếp tục bị chính quyền quản thúc, theo dõi từng hành động. Họ không thể kiếm được việc làm vì là ngụy quân ngụy quyền, thẻ căn cước được đóng con dấu oan nghiệt phân loại đỏ chói. Con cái của họ không được học cao vì thuộc thành phần cha mẹ có “lý lịch xấu”. II- Những khó khăn khi hội nhập vào xã hội Hoa Kỳ 1- Khó khăn về ngôn ngữ, việc làm Ngoài vấn đề ngôn ngữ, đa số người tị nạn đều không có một nghề nào khả dĩ có thể dùng ngay trong xã hội mới, ngoài việc làm lao động chân tay tại các nông trại, tiệm ăn, tiệm tạp hóa... Một số theo học các lớp Anh ngữ căn bản rồi học những nghề chỉ cần huấn luyện ngắn hạn. Mục đích của họ là làm bất cứ việc gì để có thể nuôi sống gia đình, khỏi trở thành cây chùm gửi trên đất Mỹ. Trong gia đình tỵ nạn Việt Nam, mọi người đều làm việc. Lợi tức thu hoạch được góp chung với nhau rồi chi tiêu dè sẻn, để dành. Cha mẹ nhiều khi làm hai, ba công việc, hết ngày lại đêm. Con cái đi học về là đi rửa chén bát, làm bồi bàn tại các tiệm ăn. Với sự lao động tối đa, chi tiêu tối thiểu, chỉ dăm năm sau là họ đã dành dụm được một số vốn đủ để mua nhà hoặc mở cơ sở thương mại. Họ đã nghiêm chỉnh áp dụng câu ngạn ngữ “khéo ăn thì no, khéo co thì ấm” vào đời sống thực tiễn ở miền đất mà khi đó họ coi chỉ là tạm cư. Họ vẫn nghĩ đến một ngày có thể trở về quê hương trong hoàn cảnh thuận tiện, tự do, dân chủ. 2- Khó khăn trong đời sống mới: 3- Khó khăn trong nếp sống gia đình Trẻ con dù sinh ra ở Việt Nam, nhưng lớn lên ở Mỹ, chơi với bạn Mỹ, giáo dục theo lối Mỹ, yêu thích tự do nên đã mau chóng sống với nếp sống mới. Còn một số các bậc làm cha mẹ thì vẫn giữ quan niệm xưa, luôn luôn cho mình là đúng, rồi ra lệnh và sắp đặt. Cho nên sự mâu thuẫn giữa hai thế hệ là điều không thể nào tránh được, nếu không có sự tương nhượng, thông cảm. Đã có trường hợp con cái kêu cảnh sát can thiệp vì cho là bị cha mẹ lạm dụng, hành hạ; những cảnh con cái bỏ cha mẹ vào nhà người già. Lại cũng có trường hợp, cha mẹ hy sinh vốn liếng, tài sản để các con vượt biên, đến các nước tự do. Sau vài năm, con cái làm ăn khá vững vàng bèn bảo lãnh cha mẹ già sang với mục đích phụng dưỡng, đền ơn sinh thành, dưỡng dục. Nhưng các cụ ở được một thời gian ngắn, niềm vui chưa trọn vẹn thì chuyện buồn đã đến nên muốn bỏ về. Lý do hoặc vì các con thay lòng đổi dạ, hoặc các cụ nhớ nhà, hoặc nghịch cảnh dâu, rể không sống chung với nhau được. Rồi lại những hôn nhân dị chủng, ly hôn ly dị của các con làm các cụ đau lòng. Bình tâm mà nói, nếu nhiều người già coi đất Mỹ như đất tạm dụng, thì với giới trẻ có ý chí vươn lên, có nghị lực thắng vượt khó khăn và quyết tâm đạt đến mục tiêu đã đặt ra, nước Mỹ là mảnh đất tốt lành đã mang đến cho họ những cơ hội để phát triển khả năng. Đây là một cơ hội ít có nếu họ còn ở Việt Nam. Nước Mỹ luôn luôn tạo hoàn cảnh thuận tiện để mọi người, nhất là giới trẻ vươn lên, miễn là đừng quá biếng nhác Rồi giữa vợ chồng với nhau, cũng có vài trục trặc đối xử. Tương quan vợ chồng bình đẳng hơn. Nhiều người nữ dễ hòa nhập nên thành công mau lẹ. Một số người nam gặp khó khăn thích ứng vì quá suy yếu trong thời gian cải tạo, quá vất vả trong những năm chiến tranh. Những so bì, bất đồng xẩy ra khiến một số gia đình đi vào tan vỡ, chia cách. 3- Thành công hội nhập vào xã hội mới Tới Mỹ không sửa soạn với hai bàn tay trắng. Họ tức tưởi rời bỏ nơi chôn rau cắt rốn trong hoang mang, vội vàng, không kịp suy nghĩ, nói chi đến sửa soạn. Họ không biết là sẽ đi đâu, không biết tương lai sẽ ra sao miễn là xa lánh hiểm họa cộng sản. Họ vào nước Mỹ đa số không nói được tiếng Anh, hầu hết không có một Mỹ kim trong túi. Họ đến từ một văn hóa với nhiều khép kín, ràng buộc vào một nếp sống phóng khoáng, tự do. Họ lạc vào rừng người có cái nhìn khác biệt về chủng tộc, giống tính. Họ chóng mặt trước sự tiến bộ, phồn thịnh của một quốc gia mới chỉ có hơn hai trăm năm lập quốc. Họ khởi sự lập nghiệp từ số không, không có một nền tảng có sẵn như người Trung Hoa hoặc di dân từ các quốc gia Âu Châu tới Mỹ từ cả trăm năm trước. Ho vật lộn với nhiều khó khăn để sinh tồn, để thích nghi với nếp sống mới và để tạo dựng một tương lai vững chắc cho thế hệ con cháu. Họ âm thầm làm việc, chịu đựng mọi thử thách, kỳ thị trong những năm đầu. Nếu đa số dân chúng Mỹ không muốn quay lưng trước hoàn cảnh tuyệt vọng của con dân một quốc gia đồng minh với họ trước đây, thì cũng có một thiểu số lạnh nhạt với lớp di dân này. Trong những năm đầu, họ được phân tán khắp 50 tiểu bang để sự cứu giúp được dễ dàng cũng như tránh sự tụ nhập quá đông người Việt ở một địa phương. Nhưng rồi dần dà, sau khi đã có lông có cánh, họ cũng tìm về với nhau, trong những tụ điểm thích hợp để tương trợ, dìu nhau mà đi lên. Dù sao thì “một giọt máu đào cũng hơn ao nước lã”. Và “Một cây làm chẳng nên non; Ba cây chụm lại lên hòn núi cao”. Với bản tính nhẫn nhục, cần cù, thực tế, dễ thích nghi, có nhiều sáng kiến nhỏ, họ đã tham gia vào nhiều khía cạnh khác nhau của đời sống Mỹ quốc. Họ đã tạo dựng nên những cơ sở kinh tế, thương mại vững chắc, củng cố và phổ biến văn hóa Việt Nam vào nền đa văn hóa địa phương. Hầu hết lớp người tỵ nạn tới Mỹ vào thập niên 70 đã ổn định đời sống mật cách thỏa đáng. Các thế hệ Việt Nam thứ hai đã mau lẹ tiến tới để thu nhập tinh hoa kiến thức qua nền giáo dục đa diện của nước Mỹ. Họ đã có nhiều đóng góp khoa học, kỹ thuật đáng khen ngợi cũng như cung hiến cho nền hành chánh tiểu bang và liên bang nhiều chuyên gia có khả năng điều hành, lãnh đạo. Chúng ta đã có những đại diện dân cử cấp liên bang cũng như tiểu bang, thành phố. Đã có người giữ chức vụ cao trong hành pháp Hoa Kỳ, những vị chánh án liên bang. Con số các khoa học gia, khoa bảng bác sĩ kỹ sư nổi danh cũng không phải là ít. Đã có người phát minh ra khí giới có thể truy tìm địch thủ dễ dàng thì cũng có những phẫu thuật gia nổi danh ghép cơ quan nội tạng, cứu nhân độ thế, những khoa học gia không gian vũ trụ, những nhà toán học trẻ tuổi Việt Nam. Bằng sáng chế khoa học của người Mỹ gốc Việt có thể nói là nhiều vô kể. Sự thành công của thế hệ này đã tạo ra nhiều ngạc nhiên cho con dân bản xứ. 4- Kết luận
|