Home Văn Học Khảo Luận Năm Sửu Rước Trâu Ra Đình Tế Lễ Lập Xuân

Năm Sửu Rước Trâu Ra Đình Tế Lễ Lập Xuân PDF Print E-mail
Tác Giả: Hồ Đinh   
Thứ Tư, 07 Tháng 1 Năm 2009 07:18

Từ trong huyền thoại Tiên-Rồng tượng trưng cho sự hùng tráng dũng mảnh và nét cao quý hòa điệu, giúp dân tộc Việt suốt mấy ngàn năm lịch sử đã trường tồn tới ngày nay . Bách Việt hay Viêm Tộc ngay từ thuở bình minh dựng nước đã là một quốc gia nông nghiệp có một nền văn minh cao vào thời đó.
Trên đồng bằng sông Hồng, tổ tiên đầu tiên của giòng giống Lạc Việt là các vi vua Hùng đã tạo dựng nước Văn Lang (tiền thân của VN ngày nay) mang ý nghĩa là những làng văn hóa chính trị lấy dân làm gốc và theo đuổi một nền kinh tế nông nghiệp bình sản qua việc phân chia ruộng đất đồng đều cho con dân trong nước cầy cấy làm ăn. Chúng ta có thể tìm thấy những nét tuyệt vời của tổ tiên ngày trước qua hình ảnh thong dong thanh thoát của nam nữ Việt tộc ca hát nhảy múa tự do sảng khoái được khắc trên trống đồng Ngọc Lũ.
Nhưng nuớc Việt người Việt đã không được may mắn như tổ tiên mơ ước vì chúng ta bất hạnh nằm sát nách với Trung Hoa to lớn và đầy tham vọng thực dân luôn muốn đồng hóa và cưởng chiếm lảnh thổ của ta thành một quận huyện như đã xảy ra trong mười thế kỷ Bắc thuộc qua cái tên An Nam (Giao Chỉ Bộ).
'Quê hương ta nghèo lắm, ai ơi !
Mùa đông thiếu áo, hè thời thiếu ăn .. ' '
Lời ca và ý nhạc thật là buồn nói lên hình ảnh của VN qua gần một thế kỷ bị thực dân Pháp thống trị bốc lột, sau đó là mấy chục năm chiến tranh tiếp diễn và tới bây giờ dù đã im tiếng súng nhưng quê hương VN từ Nam tới Bắc cũng đâu có thay đổi gì qua cảnh nghèo đói lạc hậu trong cái gọi là thiên đường xã hôi chủ nghĩa.
Quê hương ta nghèo lắm ai ơi, lời hát mới nghe qua thật là nghịch lý nhưng nếu suy nghĩ tận cùng thì rất đúng vì tài nguyên Quốc Gia buổi trước lọt vào tay của thực dân Pháp, nay toàn bộ thuộc về đảng và nhà nước Cộng Sản, thử hỏi người dân còn gì mà không nghèo không thiếu cơm thiếu áo ?
Nhưng dù có thế nào chăng nữa thì từ bao giờ đếnbây giờ, VN miên viễn cũng vẫn là một nước nông nghiệp với hơn 80 % người trong nước có thân phận và cuộc đời gắn liền với kiếp ' chồng cầy, vợ cấy, con trâu đi bừa '.Đó cũng chính là lý do giúp dân tộc Hồng Lạc được tồn tại tới ngày nay bởi vì chỉ có thành phần nông dân mới thật sự tha thiết gắn bó và yêu mến quê hương, mới cam tâm chịu hy sinh để bảo vệ quê cha đất tổ. Máu và nước mắt của họ bao đời đã đổ trên những luống cầy bờ rạ lủy tre làng. Vậy mà hầu hết những thế hệ đó đâu có bao nhiêu người được làm chủ chính trên mảnh đất mảnh vườn do cha tuyền con nối tạo dựng.
Con người đã thế thì kiếp trâu bò làm sao mà sung sướng cho được ? Dù nó rất xứng đáng là con vật tiêu biểu đứng đầu hàng gia súc, một con vật thân thương quen thuộc của mọi người không riêng gì VN mà hầu hết thế giới đâu đâu cũng thấy hình ảnh con trâu gắn liền với đồng quê bờ tre luống mạ và kinh ngạc hơn hết là hình ảnh của một đàn bò Bắc Mỹ, sừng dài, tổng cộng 39 con có kích thước như thật, dúc bằng đồng đen sẫm, đã hiện diện nơi chốn phôn hoa đô hội, tại khu công viên Pioneer Plaza tọa lạc trước Tòa Thị Chính Dallas (Texas), nguyên trước đây là mảnh đất mang tên Shawnee Cattle Trail, có con đường mòn là nơi các mục tử và đàn bò qua lại từ năm 1854, thời Hoa Kỳ mới vừa lập quốc.
Có thể nói không một học trò VN nào nếu đã tới trường mà không từng đọc qua những câu ca dao tục ngữ nói về Trâu như ' Ngưu lực đại, năng canh điền, năng vãn xa (ý nói Trâu có sức mạnh chuyên việc cày ruộng hay kéo xe) nhưng có lẽ bài ' chăn trâu ' trong sách Luân Lý Giáo Khoa Thư Lớp Sơ Đẳng ' là được mọi người ưa thích nhất ' Ai bảo chăn trâu là khổ ? chăn trâu sướng lắm chứ, đầu đội nón mê như lộng che, tay cầm cành tre như roi ngựa, ngất ngưỡng nghe chim hót và nhìn đàn bướm bay lượn trên đám cỏ xanh non.. ' '
Tóm lại, qua hình ảnh của con trâu bàng bạc trong mọi lĩnh vực thời gian và không gian, nhờ đó mà phần nào ta tìm lại được một phần niềm nhớ về quê hương xứ sở như Hà Thượng Nhân đã nhớ :
' Sáu mươi năm bổng nhớ lại chiều nay,
Thửa ruộng sâu bổng nhớ lại trâu cày
Thấy khóm ruối, bờ tre rung tiếng sẻ
Thấy bạn hữu, thấy lại mình tuổi trẻ
Thây quê hương dù xa cách muôn trùng.. ' '
Cách đây hơn 300 thời Vua Lê Chúa Trịnh ở Bắc Hà, vào dịp Tết Nguyên Đán, triều đình đã tổ chức Lễ Lập Xuân với đám rước tượng thần Câu Mang (tượng trưng lực điền) tay dắt một con trâu gọi là Xuân Ngưu, cả hai tượng đều đắp bằng đất sét. Cuộc lễ trên vừa mang ý nghĩa ' Nghinh và Tế Xuân ' cũng là dịp cả nước làm lễ cúng tế Thàn Nông, được coi là vị thần bổn mạng của dân tộc Việt bao đời, được các triều đại VN thờ kính, mà tượng trưng là ngôi đền Ngọc Sơn nằm giữa Hồ Hoàn Kiếm Hà Nội, được nối liền bằng chiếc cầu Thê Húc. Trong đền chỉ thờ vỏn vẹn có Tượng Đức Phật, Đức Thánh Trần Hưng Đạo và Vị Thần Nông. Mẫu mực của Việt Đạo này cũng được tìm thấy kháp các nẽo đường quê hương yêu dấu.
Tóm lại, đời đòi cha truyền con nối của kiếp trâu bò cũng vẫn là kéo và kéo từ cày tới xe kể luôn cả súng. Dân tộc Việt Nam ngày nay dưới gông cùm độc tài tham nhũng của đảng CS, có một không hai trong giòng lịch sử cũng thế thôi. Nên xét cho cùng đâu có hơn gì trâu bò là mấy, bởi vậy thấy thấm thía vô cùng khi đọc lại bài thơ ' con trâu ' của Phạm Ngọc Khuê :
' Nay là lúc mang sức trâu mãnh liệt
Kéo lưỡi cày rạch vỡ hết ruộng nương
khơi mạch sống từ trong lòng đất chết
Mở đường lên cho hạt thóc đang ươm.. ' '
Con Trâu là đầu sự nghiệp nên ngay từ thời Các Vị Tổ Hùng dựng và cai trị nước Văn Lang, đã cho khắc hình ảnh nó trên trống đồng Đông Sơn (Thanh Hóa) gôm 8 con tại mặt , tang và thân trống, mới vừa đào được vào năm 1996 tại xã Vĩnh Hùng, huyện Vĩnh Lộc.
1- HỌ TRÂU BÒ TRÊN THẾ GIỚI TỪ XƯA TỚI NAY :
Theo Hán Việt từ điển của Đào Duy Anh và Nguyễn Quốc Hùng, thì Ngưu có nghĩa là Bò và chú thích rằng người Việt đã nhận lầm chữ Ngưu là Trâu. Còn bộ Hán Ngữ Đại Tự Điển của Tàu mới xuất bản năm 1993 tại Thành Đô (Tứ Xuyên) thì định nghĩa chữ Ngưu chỉ chung loại động vật có vú, đầu có sừng, chân guốc đuôi có chùm lông dài, ăn cỏ nhai lại.. nói chung thuộc Họ Bò bao gồm Trâu, Bò Tây Tạng.. Vì chữ Ngưu là Danh Từ Chung (Nom Générique) nên người ta phải gọi Bò là Hoàng Ngưu, Trâu là Thủy Ngưu, Bò Tây Tạng là Mao Ngưu, Tê Giác là Tê Ngưu khi viết.. nhưng lúc phát âm thì không phân biệt mà chỉ nói chung là ' Ngầu ' như theo âm Quảng Động gọi 'Phở Bò' là Ngầu Phẳn hay Ngầu Phảnh để chỉ món ăn đuợc nấu bằng hủ tiếu với thịt bò. Nhiều bộ tự điển khác kể cả Tam Tự Kinh, Việt-Hán Thông Thoại Tự Vị của Đổ Văn Đáp , Hán Việt Tự Điển của Thiều Chửu cũng nói Ngưu là Trâu.
Ngày nay qua những nghiên cứu và khảo cổ tại vùng lưu vực sông Hoàng Hà là nơi phát xuất của Hán tộc, cũng đã xác nhận được sự có mặt của trâu rất sớm trước bò tại vùng này. Vì vậy trong các thư tịch cổ Trung Hoa, danh từ Ngưu là Trâu và câu chuyện Ngưu Lang theo huyền thoại cũng nói về chàng chăn trâu trên trời. Từ đó mới có các danh từ Hán Việt như Ngưu Manh (con mòng trâu), Ngưu Dăng (ruồi trâu), Ngưu Sắt (ve trâu), Ngưu Điệt (đĩa trâu), Ngưu Đầu Mã Viện (đầu trâu mặt ngựa), Ngưu Ẩm (uống như trâu) . Tóm lại Ngưu là danh từ chung, trước đây khi đứng một mình thì chỉ loài Trâu, ngày nay là họ Bò. Vì vậy để phân biệt người ta phải ghép trước chữ Ngưu một danh từ khác để phân biệt chữ Ngưu đó là Trâu hay Bò.
VN muôn đời vẫn là một quốc gia nông nghiệp trồng lúa nước, tuy ngày nay đã được cơ giới hóa một phần nhưng trâu cũng vẫn là một gia súc thân thuộc và cần thiết cho hầu hết mọi gia đình ở nông thôn và các bảng làng khắp nước. Từ địa vị đó, trâu được đưa vào các bộ môn văn học nghệ thuật, điêu khắc, triết học, y học thế giới.
Là động vật hoang dã nhưng trâu đã được khai hóa rất sớm ở Népal, Assam, Ấn Độ, Miến Điện Tích Lan, Đông Dương, Mã Lai.. Nhà nhân chủng học K.Kenle (1910) cho rằng trâu là con vật đầu tiên trong đàn gia súc của loài người. Tuy thuộc Bộ Bò (Bos) nhưng trâu lại có nhiều đặc tính về sinh học khác hẳn với các loài bò nhà, bò rừng, bò Tây Tạng, bò Tót, bò Balen.. Do đó Trâu được xếp vào nhiều Họ trong Bộ Bò theo các đặc tính tương cận như Họ Trâu Rừng (Bubalus), phụ Họ Buvinac, Họ Sừng Rỗng (Covicornia hay Bovidae), phụ Bộ Răng Lưởi Liềm (Selenodonta) , Nhai Lại (Ruminantia) hoặc Họ Móng Guốc Chằn.
Họ Trâu gồm ba loài : Trâu Anoa, Trâu Châu Á và Trâu Châu Phi. Sự phân biệt được căn cứ vào màu lông và hình dạng của cặp sừng. Là loài thú hoang dã, trâu được thuần hóa từ trâu rừng vào khoảng giữa đệ tam thiên niên kỷ trước Tây Lịch. Tại Á Châu có 3 loài : trâu rừng, trâu Anoa, Tamarao và Arnee. Tới nay loài người chỉ mới thuần hóa được giống trâu Arnee.
+ TRÂU CHÂU Á :
- TRÂU ANOA : gần gủi với loài trâu hoá thạch (Bubalus Triquetricornis) đuợc xem là thủy tổ của loài trâu hiện nay. Giống trâu Anoa (Bubalus Depressicornis) có tầm vóc nhỏ nhất trong họ trâu, chỉ cao từ 80-100cm, được xem là con vật trung gian giữa hai bộ Bò và Antilopa.Loài này có sừng ngắn, chỉa thẳng về phía sau, mõm nhọn, đầu cổ và chân to, trán rộng, đỉnh đầu tròn, lông hai màu nâu nhạt hay xám sẩm. Giống trâu này chậm chạm, sống kham khổ đơn độc hay từng cặp thích nước, chỉ có ở đảo Celebes thuộc Indonesia (Nam Dương).
TRÂU TAMARAO : Chỉ có ở đảo Mindoro (Phi Luật Tân) là loài trâu nhỏ, lông màu xám đen hay nâu sậm, sừng ngắn nhưng khỏe, hơi cong vào bên trong. Sống thành từng đàn nhỏ nhiều nhất 10 con, tại các khu rừng tre nứa rậm rạp đầm lầy, hiện còn rất ít.
- TRÂU ARNEE : có nhiều tại Ấn Độ, Tích Lan, Việt Nam, Lào và Kampuchia. Sống thành từng đàn lớn tại các vùng có đầm lầy suốt ngày ngâm mình dưới nước. Đây là loài trâu lớn, cao trên 1,4m nặng gần 1000 kg, da màu đen, xám hay nâu sẩm, sừng lớn cong ra phía ngoài, chóp sừng uốn thành hình lưởi liềm hướng vào trong. Hiện số lượng giảm sút rất nhiều vì bị săn đuổi và bệnh tật.
 -TRÂU HOANG ẤN ĐỘ (Bacni) VÀ TRÂU MINDO (B.Mindorensis) : Trâu Mindo đã được thuần hóa, vóc dáng lớn hơn trâu Anoa, lông đen có sừng ngắn, thẳng chỉ hơi uớn cong ở phần trên. Loài trâu này sống ở quần đảo Phi Luật Tân.
Trâu Hoang Ấn Độ hay Acni trước sống tại Bắc Phi và vùng Lưỡng Hà (Trung Đông) nay còn gặp tại vùng rừng rậm sình lầy Đông Nam Ấn Độ, Tích Lan, Miến Điện, Thái Lan. Loài này cao gần 2m, nặng trên 1500kg, thường tấn công cả voi lẫn hổ để tự vệ. Trâu Acni có sừng dài, trán rộng, thân hình đẩy đà, to và thấp. Loài này có nhiều điểm tương cận với các loài trâu Zafrabadi ở Katiava (Ấn Độ), trâu rừng Capfe (Châu Phi). Riêng loài trâu Acni được thuần hóa đã hình thành loài trâu sừng ngắn hay đặc biệt có con không có sừng.
Theo nhà động vật học Meeken, thì loài trâu hoang Ấn Độ đã mất tính miển nhiễm với hóa chát mélanin nên lông của chúng từ màu đen biến thành đỏ, hung cả trâu bạch tạng đang được nuôi trong viện nghiên cứu Azechaizan. Do có nhiều đặc tính giống nhau nên loài trâu rừng đuợc coi như tổ tiên của các giống trâu nhà Ấn Độ Sừng Dài (Bubalus Indicus Macrocuro) sống tại Miền Nam Trung Hoa, các đảo Nam Thái Bình Dương và Nam Dương Quần Đảo. Trong nhóm này còn có loài trâu hoang lông đỏ Karabu.
Trâu Sừng Ngắn (Bus, Indicus Brachyeeros) sống ở Nhật Bản, miền bắc Trung Hoa và vùng phía tây Châu Á. Loài Trâu Ấn Độ còn được gọi là Trâu Nước được coi như một gia súc, sinh sống chẳng những khắp vùng Đông Nam Á tới Trung Hoa, Ai Cập, Ý, Pháp, Hung Gia Lợi.. Loài trâu này cao khoảng 1,5m toàn thân màu đen xẩm, mặt thon, cặp sừng vươn rộng tới 1,2m nặng hơn 800kg. Trâu giúp việc đồng áng, kéo xe, cung cấp thịt, da.Trâu cái sau thời gian 10 tháng mang bầu, sẽ sinh một hay hai trâu nghé vào mùa hè.
+ TRÂU CHÂU PHI :
Tên khoa học Sincerus ,Trâu Châu Phi (trâu Cape) hao hao với trâu Ấn Độ, sồng thành từng đàn suốt ngày dầm mình trong bùn lầy. Là loài thú hoang dã mà con người chưa bao giờ thuần hóa được, loài này cực kỳ hung dữ và nguy hiểm nhất là khi bị thương. Hiện chúng còn rất ít vì bị săn đuổi ráo riết và bệnh tật. Loài trâu này cũng to lớn, lông đen thưa, nặng chừng 900 kg và cao khoảng 1,5m. Đặc biệt là bộ sừng cong veo từ dưới lên trên và uốn cuộn vào phía trong, còn lưng trâu thì có nhiều bướu lớn. Cùng loài trâu Cape nhưng ở Tây Phi thì thân hình nhỏ hơn, lông hung vàng và cặp sừng cũng ngắn, chúng sống trong các khu đầm lầy rừng rậm ít người lai vảng.
Có thể nói Sa mạc Sahara là quê hương của loài trâu Châu Phi, vào mùa giao phối, trâu đực thường kèm sát trâu cái và các trâu đực tơ chém đuổi trâu đực già ra khỏi đàn khiến chúng sống cô độc. Trâu Đông Phi thích sống ở vùng bình nguyên như Kilimandaro cao hơn mặt biển 8000m vì có nguồn nước phong phú, khi gặp người thì bỏ chạy chỉ chống lại để tự vệ lúc nguy cấp. Gần đây các đàn trâu bò và loài Antilopa tại Châu Phi bị tử vong rất nhiều do loài ruồi Xéré truyền bệnh dịch tả.
+ TRÂU NHÀ :
TRÂU VÙNG ĐÔNG NAM Á : Rất gần gũi và hơi giống trâu rừng do sự giao phối giữa trâu nuôi và trâu hoang dã tại các làng mạc gần núi rừng, ao đầm sình lầy là nơi sinh hoạt tự nhiên thích hợp của loài trâu. Từ đặc tính thích nước, người ta phân biệt hai loại trâu nhà : Trâu Đầm Lầy (Swamp Buffalo) và Trâu Sông (Riverine Buffalo) chủ yếu là Trâu Ấn Độ và Pakistan, loài trâu này ở vùng sông ngòi và thích tắm giữa giòng nước sạch.
Hai loài Trâu Nhà tại Kampuchia và Phi Luật Tân rất giống nhau về voc dáng, màu da đen, xám hay nâu nhạt. Nói chung, Trâu Nhà vùng Đông Nam Châu Á có đặc tính gần giống nhau vì ngay từ năm 1930 các nước Trung Hoa,Phi Luật Tân, Lào, Kampuchia, Thái Lan, Mã Lai Á và Nam VN đã trao đổi giống trâu lẫn nhau nhất là về màu lông đen, xám hay nâu nhạt. Đặc biệt là giống trâu nhà ' Bạch Tạng ' với lông màu vàng nhạt mọc trên lớp da màu hồng.
Loại Trâu Nhà Đầm Lầy có sừng lớn cong tròn hay hình bán nguyệt có chiều dài từ 60-120cm với khoảng cách hai chóp sừng từ 50-90cm, được dùng để mở đường rừng hay đào hố trong các đầm lầy để dầm mình. Một số Trâu của Tàu có sừng uốn cong gần như một vòng tròn có khoảng cách chỉ 12cm. Trong lúc Trâu Nam Dương có bộsừng dài quá mức với khoảng cách hai chóp sừng tới 210cm trông rất nghênh ngang khi di chuyển. Nông dân Mã Lai Á tại Penang, Kedah hay Người Phi, Nam Dương nuôi Trâu Nhà Đầm Lầy không để lấy sửa bán mà chỉ dùng trong gia đình và để chế tạo một loại phomat mềm ăn rất ngon.
Trái lại các giống Trâu Sông nuôi tại Ấn Độ, Pakistan, Nam Á và Nam Âu.. sản xuất sữa nổi tiếng khắp thế giới. Chỉ riêng Ấn Độ đã có rất nhiều giống trâu sữa được nuôi tại vùng Tây Bắc như các giống trâu Murrah, Nill Ravi, Kundi.. vùng Đông Ấn có giống trâu Surij, Mehsana, Jafarabadi, Trung Ấn có giống Napuri, Pendharpuri, Manda, Jerangi, Kelabandi, Sambalpur, vùng Nam Ấn có giống Toda và Kanara..
Do có năng suất cao về sản xuất sữa và thịt, nên giống trâu Murrah của Ấn Độ đã được xuất cảng sang hầu hết các nước Á Châu kể cả VN và Ba Tây (Nam Mỹ). Người ta nuôi loại trâu này chỉ để lấy sữa vì nó không thích ứng cho việc đồng áng cày bừa.
TRÂU NHÀ ÚC CHÂU : Người Úc bắt đầu nuôi trâu từ năm 1824 khi nhập cảng giống trâu đầm lầy tai miền Timor thuộc Indonesia. Từ đó trâu được phát triển nhanh tai vùng đồng cỏ hoang Bắc Úc. Riêng loại trâu rừng Úc được thợ săn bắn để lấy da.
TRÂU NHÀ MIỀN CẬN ĐÔNG, NAM ÂU, NAM MỸ VÀ CHÂU PHI : Thuộc giống Trâu Sông được nuôi rãi rác khắp Thổ Nhĩ Kỳ, Iraq, Iran, Bảo Gia Lợi, Ý, Hy Lạp, các nước Cộng Hòa cũ của Liên Xô như Azerbaizan, Dagestan. Trâu nhà vùng này được nuôi để lo việc đồng áng, lấy thịt, sữa làm phó mát.. Tại Nam Mỹ chỉ có Ba Tây nuôi giống trâu sữa Murrah và Jafarabadi nhập từ Ấn Độ. Ngoài ra còn giống trâu điạ phương sống tại vùng châu thồ sông Amazone là giống Preto lấy sữa và Rosilo ăn thịt. Tại các nước thuộc vùng Caribé chỉ có Trinidad nuôi trâu để lo việc cày bừa tại các đồn điền mía và Guana nuôi trâu để kéo gổ. Các giống trâu trên đều được nhập từ Ấn Độ tứ năm 1900-1945 như Murrah, Jafarabadi..
Ai Cập là nước duy nhất ở Châu Phi nuôi trâu lấy thịt và sữa với hai giống Beheri (miền Nam) và Saidi (miền Bắc). Trâu Ai Cập có sừng tương đối ngắn cong về phía sau dọc theo đầu và chóp sừng cong dần lên trên. Tóm lại trâu sống khắp hoàn cầu nhưng 90% tại Á Châu và Ấn Độ là quốc gia có số lượng trâu-bò nhiều nhất thế giới .
VN xưa nay vẫn nuôi loài Trâu Đầm Lầy (Swamp Buffalo) có hình vóc vạm vỡ bụng to chân ngắn, lông màu xám đen, sừng hình bán nguyệt nằm ngay trên mặt phẳng trán. Điểm đặc biệt của loài trâu VN là giữa trán có một miếng vá xám trắng, hai vành mắt cũng có hai chấm trắng và một chòm ria mép trắng ở phía môi trên. Ngoài ra còn có hai đai trắng (chevron) , một ở dưới cổ vắt ngang qua cuống họng, còn cái kia thì nằm phía trước ngực.
Trâu nhà VN có tổ tiên là giống trâu rừng Châu Á (Bubalus Arnee) là một trong ba nhóm trâu hoang dã còn thấy tại vùng ba biên giới Việt-Miên-Lào và Cao Nguyên Trung Phần. Cũng từ nhóm trâu rừng trên, người Việt đã sớm biết thuần hóa chúng vào thời đại đồ đá cách đây vài ngàn năm, để giúp việc đồng áng qua nghề trồng lúa nước, mà di chỉ xác nhận có xương trâu nhà, đào được tai Phú Lộc, Hậu Lộc thuộc Thanh Hóa thời Vua Hùng cai trị nước Văn Lang với lảnh thổ gồm Bắc Việt và các tỉnh Thanh, Nghệ, Tỉnh ngày nay. Hiện trâu VN đã được lai giống với Trâu Sông Ấn Độ (Murrah) để tăng thêm năng suất sữa và thịt.
2- NĂM SỬU RƯỚC TRÂU ĐẤT RA ĐÌNH TẾ LỄ LẬP XUÂN :
Đại Việt ngay từ thời Lý Trần (thế kỷ XI-XIV) đã lấy nông nghiệp làm nguồn kinh tế chính cả nước, do đó đã ban hành chính sách phân chia ruộng đất cho nông gia để khuyến khích việc đồng áng tăng gia sản xuất. Đồng thời chính quyền cũng rất quan tâm tới ' con trâu ' vì nó là động lực giúp nhà nông trong mọi nông vụ. Bởi vậy năm 1123 vua Lý Nhân Tôn đã xuống lệnh ' Cấm Giết Trâu Ăn Thịt ' ai vi phạm sẽ bị phạt nặng theo luật pháp.
Tiếp đến thời Nhà Trần cũng noi theo Luật Hình Thư (đời Lý) mà sửa đổi thành Hình Luật , trong đó qui định hình phạt về các tội ăn trộm và giết hại trâu bò. Hàng xóm hay bất cứ ai biết mà che chở không tố giác cũng bị xử đánh Trương rất nặng.
Vào những ngày đầu xuân, nhà vua thân chính tới lễ đàn để tế Thần Nông và cũng tự mình cầm cương dắt trâu làm lễ cày ruộng tịch điền, tuy chỉ là một hình thức tượng trưng nhưng lại vô cùng ý nghĩa về sự quan tâm của chính quyền đối với nên nông nghiệp của nước nhà. Tịch điền là một thửa ruộng dành riêng để nhà vua cử hành nghi thức cày ruộng đầu năm. Riêng con trâu cày ruộng tịch điền, cũng được nuôi dưỡng đặc biệt và là loài trâu đực thiến. Ngày làm lễ, trâu được tắm rữa sạch sẽ, mặc gấm vóc. Vua sau khi tế thần xong, thì bước xuống ruộng cày một đường tượng trưng, mở đầu cho vụ mùa năm mới cả nước được ' phong đăng, hòa cốc ' làng nước thanh bình, muôn dân an cư lạc nghiệp.
Một giáo sĩ người Ý tên AdrianoDi Santa Tecla thuộc giòng Augustin truyền đạo Thiên Chúa tại Đàng Ngoài từ năm 1738-1765, kể chuyện ' Đám Rước Trâu Đất Trong Lễ Lập Xuân ' dưới thời Vua Lê Chúa Trịnh ' cách đây 300 năm. Tài liệu quý giá này là một bản viết tay, hiện được lưu trữ tại thư viện quốc gia Pháp (Bibliothèque Nationale) bằng tiếng Latin dưới tựa đề ' Opusculum de sectic apud Sinenseset Tunkinenses ', được tham khảo từ hai bức thư của vị linh mục Tây Ban Nha tên Francisco Gil de Frderich có tên Việt là Tế, đã ghi lại những phong tục tập quán ngày xưa ở Bắc Hà, khi ông bị giam trong ngục từ năm 1737-1745.
Phan Huy Chú cũng ghi lại đám rước Trâu và Mục Đồng trong dịp lễ tế Lập Xuân hàng năm vào dịp Tết Nguyên Đán gần giống như tài liệu của các vị giáo sĩ Thiên Chúa Giáo từng truyền đạo tại Đàng Ngoài. Từ tháng 11 âm lịch sau tiết Đông Chí, triều đình cho đắp bằng đất sét theo mẫu sẳn có, một tượng Xuân Ngưu và thần Câu Mang dưới hình thức một người lực điền dắt một con trâu. Tượng đất phải có kích thước và màu sắc ứng với ' can chi ' năm đó và hợp với năm tháng của Lập Xuân.
Trong lễ này, ngoài hai tượng chính còn đắp thêm 1300 trâu bé và 1300 mục đồng nhỏ với kích thước khoảng 5-6 ngón tay. Tất cả tượng trên được trưng bày tại Nha Môn Ngưu. Một ngày trước Tết, tượng Xuân Ngưu và thần Câu Mang được trưng bày trịnh trọng tại môt Điếm vừa được dựng ngay tại ngõ Hàng Chiếu, trong khu phố Đông Hà, trước cổng thành Thăng Long. Cuộc lễ bắt đầu nữa đêm, phủ doản và hai tri huyện tại Thăng Long cùng với dân chúng kinh đô đến Điếm rước tượng Xuân Ngưu và thần Câu Mang về đền Bạch Mã ở Hà Khẩu. Tại đây chỉ rước tượng thần Câu Mang vào đền để cúng tế, rồi bó chiếu tượng này đem chôn.
Sáng hôm sau người ta kiệu Xuân Ngưu (trâu đất), đuợc bỏ trước đền đêm qua, mở đầu cuộc rước Lập Xuân tới đền vua Lê để dự lễ tiến Xuân Ngưu. Theo sử liệu ghi lại, sở dĩ thời Lê Mạt đã tổ chức lễ lập xuân thật long trong hơn các đời khác, vì lúc đó từ triều chính tới xã hội quá nhiễu loạn rối ren, nên cả vua lẫn chúa đều muốn thỉnh cầu các vị Thần Linh hộ trì cứu độ đem lại an bình cho đất nước và no ấm tới muôn dân khỏi cảnh đói nghèo.
Cũng liên quan tới Trâu trong lãnh vực tôn giáo và tín ngưỡng, ngoài việc các dân tộc Trung Á và đồng bào thiểu số ở cao nguyên Trung Phần tới nay vẫn giữ nguyên tục lệ giết trâu để tế thần linh hay tổ chức lễ lat. Nhà toán học Ấn Độ là Pythagore cách đây gần 25 thế kỷ, đã tìm được định lý mang tên ông để tính các cạnh trong một tam giác vuông ' bình phương cạnh huyền bằng tổng bình phương của hai cạnh góc vuông : a2 + b2 = c2. Đồng lúc nhà Chu bên Tàu cũng tìm được công thức số học tương đương với định lý hình học trên ' 3x3 + 4x4 = 5x5. Để ăn mừng phát minh trên, nhà Chu đã giết trâu theo công thức trên vào các dịp tế lễ nếu nhỏ thì 25 con còn lớn thì dùng tới 100 con cũng dưa theo công thức số học : 6x6 + 8x8 = 10x10.
Tám trăm năm trước, một vị thiền sư người Nhật đã vẽ 10 bức tranh Trâu gọi là ' Thập Trận Ngưu Đồ ' dùng làm tài liệu Phật học để các đệ tử chiêm ngưỡng phá Công Án. Sau đó nhưng búc tranh trên được vẽ lại và truyền sang Trung Hoa, được phổ biến trong các thiền viện qua cái tên mới là ' Thập Mục Ngưu Đồ '.Đây là mười bức tranh ' chăn trâu' dược giới Phật Học Tàu dùng để tượng trưng cho cái tâm của con người, rất khó điều ngự (tâm viên ý mật) ý nói tâm con người luôn nhảy nhót như con vượn, vì vậy cần phải tu dưỡng để đưa nó trở lại con đường chính đạo.
Được biết các bộ tranh Chăn Trâu của Phật Giáo Đại Thừa và Thiền Tông Trung Hoa đều xuất hiện vào đời Nhà Tống (thế kỷ XII), nội dung nói chung chỉ khác biệt chút ít về quá trình đốn ngộ (giác ngộ tức thì) và tiệm ngộ (giác ngộ từ từ) . Yếu điểm cách tu trì của Thiền Tông là những công án được đề xướng như nhát búa cuối cùng đập vỡ những suy tưởng mà con người dựa vào đó để biện luận cho nhân sinh quan của cuộc đời. Đó là lý do tranh chăn trâu của Thiền Tông đã không dừng lại ở giai đoạn ' quên cả vật và ta' mà lại quay về cái bản thể chân thật, để rồi rong chơi trong cõi thực tại này.
Các bộ tranh chăn trâu trên được du nhập vào VN, tới thời Lê Dụ Tông niên hiệu Vĩnh Thịnh thứ 15 (1719) đã xuất hiện một bộ tranh chăn trâu do thiền sư Quảng Trí ở chùa Trấn Hải sáng tạo, dựa theo 10 bức tranh chăn trâu của Phật Giáo Đại Thừa, ngoài ra ông còn vẽ thêm những cảnh giới để đạt tới tâm thức gọi là phép luyện tâm. Đây là một công trình quý báu của Phật Giáo VN, đã được khắc in vào thời Vua Tự Đức nhà Nguyễn. Nên dù có xuất xứ từ Nhật Bổn, Trung Hoa hay VN, 10 bức tranh chăn trâu hay Thập Mục Ngưu Đồ trước sau vẫn là một công trình tu tập của Phật tử, đi từ giới tới định và huệ, từ thanh văn, duyên giác đến Bồ Tát, Phật và cuối cùng đạt tới đỉnh của hửu tâm trở thành vô tâm, tất cả là không và đó là cõi niết bàn.. như bài kệ của một thiền sư đời Lý đã đốn ngộ :
' Có thì có tự mảy may,
Không thì cả thế gian này cũng không
Vừa xem bóng nguyệt lòng sông
Ai hay không có, có không là gì ?
Tóm lại các vị chân tu khi sáng tạo ' Thập Mục Ngưu Đồ Tụng ' cũng chỉ mong Phật tử theo đó để biến Trâu Đen (ô trọc) thành Trâu Trắng (Ngộ) thế thôi.
3- NHỮNG CHUYỆN LẠ VỀ TRÂU :
+ TRÂU TRONG NGÀNH THIÊN VĂN VÀ LỊCH PHÁP :
Vào thời Hoàng Đề bên Tàu cách đây hơn 50 thế kỷ, người Trung Hoa đã tìm ra phương pháp làm lịch theo sự chuyển động của mặt trăng, dùng 12 vật tượng trưng để chỉ 12 ngôi mà Sửu là ngôi 2 trong địa chí. Như vậy theo âm lịch, thì tháng Sửu là tháng Chạp, giờ Sửu từ 1-3 giờ sáng, hướng Sửu nằm về phương Bắc-Đông-Bắc (30 độ) .
Trong Nhị Thập Bát Tú (28 vì sao) nằm đều trong vòng tròn, có chòm Sao Ngưu (constellation d'Aigles) ở hàng thứ chín về phía Bắc Hoàng Đới (zodiaque) 7 độ phương vị đối với đường xích đạo (equateur céleste) là 275 độ 10. Kế cận hàng thứ 10 là chòm Sao Chức Nữ (véga) . Với Tây Phương, cũng có chòm sao Kim ngưu (mang ký hiệu đầu trâu) nằm trong vòng Hoàng đới (Zodiaque) chính là chòm sao Taureau vào tháng 5 duơng lịch, mặt trời sẽ đi qua chòm sao này.Người Tàu chắc nghĩ tới hai chòm sao Ngưu và Nữ trong Nhị Thập Bát Tú nên mới đặt ra huyền thoại diễm tình ' Ngưu Lang Chức Nữ ' vào tháng bảy mưa ngâu
+ TRÂU TRONG PHONG TỤC TẬP QUÁN :
Trước đây ở mỗi phủ huyện miền xuôi thường có chợ trâu là nơi họp mặt để mua bán trâu. Một số chợ nổi tiếng như chợ Gồi (Nam Định), chợ Thủy Nguyên, Thủy Tú, Thủy Tề (Hải Phòng), chợ Thanh Hà (Hải Dương) . Tại đây nghề lái trâu ra đời đúng như thành ngữ ' miệng lưỡi lái trâu ' mà đa so giới này là những kẻ lừa đảo , khiến cho thiên hạ tin theo phải tán gia bại sản, khi nghe theo lời đường mật nên mua lầm, vì con trâu là đầu sự nghiệp.
Người Thái Trắng ở vùng lòng chảo Mường Lò (Tây Bắc) mừng Tết Xíp Xí vào tháng 7 Âm lịch, có liên quan tới vụ mùa. Dịp này người ta tổ chức cho Trâu ăn Tết. Hôm đó trâu được tắm rữa sach sẽ, dắt tới buộc ở chân cầu thang nhà sàn, chủ nhà sau khi nói đôi lời cám ơn trâu, rồi mang xôi thịt cả rượu đãi trâu. Hôm đó cũng là ngày Tết Mục Đồng, bọn trẻ chăn trâu được tự do dắt trâu và mang thit xôi tìm tới một nơi ưa thích để nô đùa, ăn uống, ca hát.
Têt trâu cũng là một tục lễ cổ truyền ở các vùng nông thôn VN. Tại Hoằng Hoá, Nga Sơn (Thanh Hóa), Vĩnh Linh (Quảng Trị), vài ngày trước Tết , người ta tìm thứ cỏ thật ngon và mớ rơm khô để thưởng trâu ăn tết. Trâu được tắm rữa sạch sẽ, chuồng cũng quét dọn kỹ càng. Sáng mùng một Tết, mỗi con trâu đều được dán trước trán một lá bùa đỏ để trừ tà, xua đuổi vận rũi trong năm cũ cũng như chúc cho trâu năm mới sức khoẻ dồi dào, ăn no cày mạnh. Sau khi cúng thần chuồng, trâu cũng được ăn cổ với các món bánh chưng, thịt cá, xôi chè.. Đồng thời chọn ngày tốt dắt trâu thưởng xuân và cày thử để lấy hên.
Với người Chàm ở Ninh-Bình Thuận, con trâu là loài vật có liên hệ tới các lễ nghi phong tục đồng thời cũng là lễ vật dâng cúng thần linh, ông bà, cha mẹ.. Theo phong tục tập quán từ xưa truyền lại, cứ 7 năm một lần, vào tháng 7 lịch Chàm, dâng làng dâng cúng thần linh tại núi đá trắng (Giang Patao) thuộc làng Như Bình, Phước Thái, Ninh Phước (Ninh Thuận) một con trâu trắng. Riêng lễ đâm trâu vẫn còn tồn tại với người Chàm theo đạo Bà La môn và BàNi vào dịp có tang lễ.
Người Việt gốc Miên ở Nam Phần từ xưa đã có tục rước trâu bò nhân ngày Tết đến. Theo tập quán cũ, cứ vào đầu năm mới, nông dân nặn tượng trâu bò và lực điền bằng đất sét. Những tượng đất này được đặt vào kiệu để du hành trong cuộc rước lễ, do vị chức sắc đứng đầu trong sóc gọi là A-Cha chủ xướng. Đoàn kiệu có giàn nhạc tháp tùng, khởi hành từ làng ra ruộng và đặt tất cả những tượng đất ở đó với ngụ ý là các tượng sẽ gánh hết bệnh tật và sự xui sẽo trong năm cho dân làng. Cuối cùng là xẽ thịt trâu bò để mừng năm mới.
Về tục chọi trâu, trước khi xãy ra cuộc kháng chiến chống Pháp của toàn dân Việt (1946-1954) nhiều làng xã ở Bắc Phần đã có và được cử hành vào dịp Tết. Nổi tiếng nhất vẫn ở Đồ Sơn (Kiến An) và vùng Vĩnh-Phúc Yên. Tại đây Hội Chọi Trâu khai diễn 2 lần vào ngày 28 tháng Chạp và 17 tháng Giêng Âm lịch với 8 cặp trâu tham ự. Càng về sau do tình trạng chiến tranh, loạn lạc và đoí kém nên chỉ còn 4 cặp trâu hay it hơn tuỳ thuộc tình hình kinh tế.
Theo truyền thống thì trước ngày khai hội một năm, làng xã chọn các chàng trai nuôi trâu qua bốc thăm. Người trúng tuyển được nhận 50 đồng bạc Đông Dương để tự mua trâu về nuôi. Thời gian chăm sóc trâu cũng vô cùng vất vã cực nhọc, từ ăn uống tới chuồng trại và canh chừng không cho trâu đực sút chuồng nhảy cái. Riêng người nuôi trâu cũng bị cấm cử gắt gao từ việc ăn uống (cấm thịt chó, hành tỏi sống) và sự gần gũi đàn bà. Rồi ngày Hội Chọi Trâu cũng tới, thu hút dân chúng trong vùng và các tỉnh lân cận tham dự rất đông vui. Với những con trâu đực sung sức bị nhốt lâu ngày, nay được thả ra tha hồ chém húc chí mạng, giữa tiếng hoan hô cổ võ của con người. Thật là sung sướng vô cùng cho những chàng trai có trâu thắng cuộc nhưng cũng vô cùng bất hạnh cho ai có trâu làm biếng không chịu đấu. Chàng trai đó ngoài việc phải trả lại 50 đồng cho làng xã, mà còn bị mang tiếng là không chịu giữ trai giới nên bị thần thánh quở phạt.
Trên cao nguyên Trung Phần, từ trước tới nay người Thương chỉ đốt rừng làm rẩy trồng lúa khô, nên trâu bò nuôi phần lớn chỉ dùng vào việc cúng tế lễ lạc vào các dịp Tết và lễ mừng mùa gặt mới. Trong ngày Hội Đâm Trâu, một cây nêu cao từ 5-6m đuợc trồng, phía trên thiết một bàn thờ nhỏ để cúng thần núi và ông bà bản địa. Quanh thân cột được chạm trổ tinh vi cắm nhiều lưởi dao. Con trâu tế thần bị cột ở đó.
Sau khi pháp sư hành lễ xong, một chàng trai lực lưởng ra sân chém trâu. Mọi người trong thôn bảng đều có mặt hôm đó và vây kín sân lễ, giữa tiếng chiêng trống nổi lên phá tan sự im vắng hằng ngày của núi rừng, như để cổ võ tinh thần của người trong cuộc. Đầu tiên chàng ta chạy vòng theo con trâu, thừa dịp dùng dao bén chém vào bốn gót chân con vật. Trâu bị thương té quị giữa sân lễ, để rồi hứng chịu thêm nhiều mũi giáo nhọn đâm lũng tim tới chết. Sau cùng đám thanh niên khác a vào phanh thây trâu, đem nướng trên đống lửa đang bùng cháy dữ dội, miệng tu rượu cần và ca hát vui vẽ.
Nam Dương là một quốc gia hải đảo sống về nông nghiệp trồng lúa nước. Tuy vấn đề chủng tộc rất phức tạp tại đây nhưng có một vấn đề tuyệt đối là sắc tộc nào dù là người Batak, Minang Kabaus hay Toradjas.. đều tôn sùng con trâu sau sự thờ cúng tổ tiên, vì chinh con vật tại đất nước này được xem như là một biểu tượng giúp họ đắc lực trong đời sống hàng ngày. Ngoài ra trâu còn được nhắc nhớ từ truyền thuyết của người Minang Kabaus ở tây bắc đảo Sumatra, đã nhờ một con trâu giỏi, phá đuợc dã tâm sáp nhập vùng này vào Mã Lai. Tên bộ tộc này đuợc đặt theo tên của con trâu đã chiến thắng từ đó (Minang ốKabaus) có nghĩa là trâu chiến thắng. Người địa phương đã lấy sừng trâu để trang trí các mái nhà. Còn người Batak thì có tục chọi trâu với ý nghĩa nhờ đức tính của trâu sẽ truyền sang những đôi trai gái vừa mới cưới.
Trong y học, Đông Dược được phân làm bốn loại : nhiệt, hàn, ôn và lương. Thịt trâu có tính hàn giải nhiệt cho những người làm việc lao động cưc nhọc, qua thang ' Ngưu Nhụ''. Theo sữ liệu thì Đổ Phủ (712-770) một nhà thơ nổi tiếng đời Đường bên Tàu đã trúng thực chết sau bữa tiệc thịt trâu. Ngoài ra lục phủ ngủ tạng của trâu đều có chất bổ dưởng, được dùng làm thực phẩm cho con người lẫn các gia súc khác. Da trâu làm mặt trống mặt đàn, may vali túi xách, đóng giày, giây nịt..
Ngay từ năm 1798, một nhà bác học người Anh đã lấy vi khuẩn gây bệnh đậu mùa cho trâu bò để chế tạo thành thuốc chũng tiêm ngừa và trị bệnh này cho con người. Cũng từ đó chứng bệnh trên không còn thuộc loại nan y, từng gây nguy hiểm chết chóc đến nhân loại như trước. Ngưu hoàng là sỏi mật của loài trâu chuyên trị kinh giản và chứng sốt quá độ của con người.Theo sách ' Thần Nông Bản Thảo' và nhiều sách y dược Đông Phương khác, đều có bàn tới tác dụng của ngưu hoàng, giúp tăng lượng hồng huyết cầu, huyết sắc tố, mở các mạch tim, đặc trị về gan.. Nhưng Ngưu Hoàng lại có vị đắng và hơi độc, vì vậy có thể làm trụy thai nơi người phụ nữ đang có bầu.. Đông y còn có vị thuốc Ngưu Tất (Achirantes Bidentata), bắt buộc người uống phải cữ thịt trâu-bò, nếu không sẽ bị trúng thuốc. Cuối cùng là các vị Ngưu Thụ, Kim ngưu Thảo, Ngưu Bàn, Ngưu Thiệt Đầu, Ngưu Hộ, Ngưu Vĩ Hao.. đều dùng được trong thuốc Bắc.
Trâu cũng được dự phần trong thực đơn của vua chúa Trung Hoa từ trước tới nay vãn nổi tiếng ăn uống rất cầu kỳ tốn kém. Món ' Da Tây Ngưu (Trâu Tây Tạng) được xếp trong thập trân gồm : gan rồng, chả phụng, bao tử cọp, vi cá gáy, thịt cú, môi đuời ươi , bàn tay gấu, nem cóc và da tây ngưu.
Tây ngưu hay Tê ngưu (Seaigan) thuộc bộ bò, nhóm phụ tây ngưu rất giống trâu về vóc dáng nhưng đặc biệt chỉ có một sừng mọc trên sóng mũi, bén nhọn như mũi mác làm bằng thép cứng dài khoảng 0, 70m, là vũ khí lợi hại dùng để tấn công kẻ thù như voi, cọp, sư tử.. Nó rất hung dữ, đa tình, sống thành từng đàn tại vùng tây nam Trung Hoa, trong những khu rừng thưa sình lầy có khí hậu ẩm thấp. Trên cao nguyên Tây Tạng có nhiều loại tây ngưu như hắc tây ngưu da đen một sừng, bạch tây ngưu lông trắng hai sừng và sơn tây ngưu chỉ sống trên núi cao. Loài tây ngưu chân có ba móng như heo, đặc biệt là da rất dày trên một tât (10 cm) lại dai như gân, cứng như sắt thép nên không có thứ vũ khí nào kể cả đạn xuyên thủng được.
Tây ngưu săn mồi vào ban đêm, ăn cây cỏ thực vật, uống nước bùn và ngủ li bì ban ngày. Sừng tây ngưu là thuốc quý chửa các loại bệnh ung nhọt nhưng chính da mới là một trong mười món thập trân cao lương mỹ vị của vua chúa và giới hào phú Tàu. Nhưng hạ con vật này là một công việc hiểm nguy đầy khó khăn không thua gì sự chế biến da tây ngưu thành món thập trân cho vua chúa. Da tươi trước hết đem cạo hết lông, lóc bỏ phần mỡ rồi đem phơi nắng ban ngày, tối sấy khô liên tục trong 200 ngày. Sau đó đem da tẩm rượu mai quéạ lộ loại thượng hạng trong một tháng, vớt ra phơi khô và cất kỹ trong một chiếc hộp làm bằng vàng hay bạc, để giữ mùi thơm. Lúc ăn đem da ngâm trong nước tro thảo mộc loại quý suốt 7 đêm ngày mới vớt ra, rữa sạch rồi đem chưng cách thủy cho chín. Cuối cùng thái thành từng lát mỏng, nấu với các vị thuốc bổ thêm vào các gia vị hảo hạng. Lúc này da tây ngưu trở thành giòn như thạch, có mùi thơm ngát tựa hoa hồng. Da tây ngưu chữa dứt được hôi nách và nhiều loại bệnh thời khí.
Quả thật không có con vật nào xông xáo hơn trâu, hần như nơi nào cũng thấy có bóng dáng chàng, kể cả nơi tiên giới.. Đó là câu chuyện Ngưu Lang Chưc Nữ trong điển tích Thất Tịch, là đêm mồng bảy tháng bảy, được truyền tụng trong dân gian. Ca dao VN cũng có ghi chép:
' Tục truyền tháng bảy mưa ngâu,
con trời lấy chú chăn trâu cũng phiền
một là duyên, hai là nợ
dây xích thằng ai gỡ cho ra
vụng về cũng thể cung nga
trăm khôn nghìn khéo chẳng qua mục đồng.. ' '
Điển tích nói về mối tình ngang trái giữa nàng Chức Nữ cháu Ngọc Hoàng với chàng Ngưu Lang chăn trâu trên thượng giới. Vì phạm thiên điều nên đôi vợ chồng phải sống ngăn cách bên hai bờ ngân hà và mỗi năm chỉ được gặp nhau một lần, giữa đêm thất tịch trên cầu ô thước bắt ngang sông. Cũng chính đêm tương ngộ đó, Ngưu-Chức đã khóc thật nhiều cho thân phận trắc trở ngang trái của mình và nước mắt của hai người đã rơi như mưa xuống cõi trần, được nhân gian gọi là ' mưa ngâu tháng bảy' về sau được các thi nhân dùng để diễn tả cảnh sinh ly tử biệt của trai gái, vợ chồng.
Nhưng ở sao cho vừa lòng người ? Cứ lấy con trâu cầm tinh năm sửu ra để mà suy ngẩm cuộc đời, nên đâu trách Học Lạc đã giận cá chém thớt khi viết bài thơ ' vịnh con trâu ', mượn con vật hiền lành và thân thương đáng quý của làng xã , để chửi xéo bọn Việt gian theo Pháp thuở đó, quả thật bất công vì tư cách của chúng đâu có xứng đáng để so sánh với trâu :
' mài sừng cho lắm cũng là trâu,
ngẫm lại mà xem thật lớn đầu
trong bụng lam nham ba la sách
trên cầm lém dém mấy chòm râu
mắc mưu đốt đít tơi bời chạy
làm lể bôi chuông nhớn nhác sầu
nghé ngọ gìa đời quen nghé ngọ
năm dây đàn gảy biết chi đâu ?
Nhưng dù gì chăng nữa thì hồn cũng thấy xao xuyến khi vô tình đọc lại mấy câu thơ của Ngô Văn Phú để càng da diết thương nhớ quê hương đang xa cách muôn trùng :
' Ai thổi sáo gọi trâu đâu đó
chiều về nghiêng trên mảng núi xa
con trâu trắng dẫn đầu lên núi
vểnh đội tai nghe sáo trở về.. '
Xóm Cồn Hạ Uy Di
Cuối Đông Mùa Tết 2008