Home Phiếm Các Tác Giả Nhân Mùa Xuân Thứ 30 tại Xứ Người (1)

Nhân Mùa Xuân Thứ 30 tại Xứ Người (1) PDF Print E-mail
Tác Giả: Bai An Tran   
Thứ Tư, 08 Tháng 10 Năm 2008 01:24

NHÂN MÙA XUÂN THỨ 30 TẠI XỨ NGƯỜI

THỬ MINH HỌA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA

VÀ TÂM TRẠNG NGƯỜI DÂN QUA 30 NĂM CA DAO THỬ MINH HỌA XÃ HỘI

Nguyễn Ngọc Bảo

(Báo Ngày Nay số Xuân Ất Dậu 2005)

 

Việt nam có một ông già

Râu dài, tóc bạc tên là Chí Minh

Ông hay uống rượu một mình

Khi buồn lại rủ Trường Chinh uống cùng

Say sưa ông nói lung tung:

Việt Nam mình sẽ sánh cùng năm châu

- Này ông, chuyện ấy còn lâu!!!

Câu ca dao nêu trên có lẽ được sáng tác và lưu hành tại miền Bắc từ ngày ông Hồ Chí Minh còn có thể ngồi lai rai uống rượu và ăn nói lung tung, tức là trước cái ngày ông được nhân dân ca tụng bằng hai câu ca dao khác cũng chẳng kém mùi “phản động”: “bác Hồ ta thật vẻ vang, đang từ khỏe mạnh chuyển sang… từ trần”.

Phải công nhận tác giả câu ca dao tả bác uống rượu, và cả những người góp phần khẩu truyền câu ca dao, quả là trông xa thấy rộng. Ngay từ bốn, năm thập niên trước, khi đảng cộng sản Việt Nam nói riêng và cộng sản quốc tế nói chung đang làm mưa làm gió trên quả địa cầu, những người dân ấy đã đủ sáng suốt để vỗ vai bác, dù là vỗ vai bằng chữ nghĩa, mà bảo bác rằng “Này ông, chuyện ấy còn lâu!”.

Quả thật, cho đến hôm nay, dưới sự lãnh đạo của cộng sản, chuyện Việt Nam có thể sánh vai cùng cộng đồng nhân loại vẫn còn lâu, lâu lắm. Trong suốt hơn nửa thế kỷ kể từ ngày cai trị miền Bắc và ba thập niên từ lúc cưỡng chiếm miền Nam, cộng sản Việt Nam đã gieo rắc muôn vàn tang thương cho dân tộc. Biết bao tiếng kêu đau đớn và phẫn uất của nhân dân đã vang lên trong suốt chiều dài lịch sử này. Trong số ấy, nhiều tiếng kêu đã cô đọng thành những câu ca dao thật độc đáo.

Tự ngàn xưa, cổ nhân đã nhận định là muốn tìm hiểu bản chất một chế độ thì chỉ cần xét tinh thần của người dân sống trong chế độ. Tuy nhiên, làm thế nào để biết được tinh thần người dân? Để trả lời câu hỏi, các cụ dậy rằng “dễ lắm, tinh thần người dân luôn luôn được phản ảnh qua thơ và nhạc lưu truyền trong dân gian”. Cũng vì vậy mà cụ Khổng đã bảo “thanh âm chí đạo dữ chính thông hỹ”, tức là “đạo thanh âm tương thông với chính trị”, và cụ nói rõ rằng “thơ nhạc gốc ở tình cảm, mà tình cảm gốc ở chính trị”. Từ quan niệm này, cụ đã san định Kinh Thi, gồm hơn ba trăm bài thơ mà đa số là những bài thơ “quốc phong”, tức thơ của dân gian, về đời vua Văn nhà Chu (1186 đến 1135 trước Tây Lịch) để mô tả xu hướng chính trị và luân lý của xã hội thời bấy giờ.

Hôm nay, 30 năm sau ngày miền Nam đổi chủ, bắt chước cổ nhân, người viết xin dùng những câu ca dao được lưu truyền tại Việt Nam kể từ biến cố tháng tư năm 75 để minh họa bức tranh xã hội chủ nghĩa và tâm trạng người dân trong suốt 30 năm qua. Trong số những câu ca dao này, có những câu ta thán đầy thê lương ảo não, có những câu trào phúng “bề ngoài cười nụ, bề trong khóc thầm”, có những câu châm biếm chua cay, và có cả những tiếng mắng chửi vô cùng hằn học. Có thể nói tất cả những câu ca dao ấy là một hình thức phản kháng, một thứ vũ khí đấu tranh của người dân thấp cổ bé miệng trước sự áp bức của bạo quyền.

Cũng xin nói thêm, người viết rời quê hương trong ngày cuối cùng của cuộc chiến và cho đến hôm nay, sau 30 năm tỵ nạn nơi đất khách, vẫn chưa về thăm lại quê nhà để đi “thực tế” (mượn tạm ngôn từ của cộng sản) một chuyến. Vì vậy, những câu ca dao trích dẫn trong bài là những câu hoặc đã sưu tầm được trên sách báo và trên mạng lưới điện toán, hoặc do những người đã từng sống nhiều năm với cộng sản kể lại khi đến định cư tại xứ người, hoặc do các thân hữu về thăm Việt Nam mang sang làm “quà lưu niệm”.

Đến hôm nay, có lẽ những người di tản đợt đầu tiên từ gần 30 năm trước vẫn còn nhớ đôi câu thơ phát xuất tại miền Nam sau ngày Sài Gòn đổi chủ. Vâng, chúng ta đã nghe nhắc đến đôi câu ấy trong những năm tháng đầu xa quê hương. Nghe mà dạ bùi ngùi. Nghe mà lòng chua xót:

Nam Kỳ Khởi Nghĩa tiêu Công Lý

Đồng Khởi vùng lên mất Tự Do

Câu thơ đánh dấu sư kiện, tại Sài Gòn, nhà cầm quyền cộng sản đổi tên đường Công Lý thành Nam Kỳ Khởi Nghĩa và đường Tự Do thành Đồng Khởi. Ở một ý nghĩa khác, công lý đã chết tức tưởi và tự do thì đã vội vã ra đi.

Và đôi câu khác cũng được phổ biến khá rộng rãi trên mọi miền đất nước, từ sông Bến Hải đến tận mũi Cà Mau:

Dép râu dẫm nát đời son trẻ

Nón tai bèo che khuất nẻo tương lai

Đau đớn thay:

Chim xa rừng còn thương cây nhớ cội

Việt Cộng về thành làm tội dân ta

Ba mươi năm bị làm tội làm tình, quãng thời gian dài gấp đôi đoạn đường luân lạc của Thúy Kiều thuở trước. Từ ngày ấy đến hôm nay, bao nhiêu hàng nước mắt đã lăn dài trên gò má người dân cùng khổ.

Đổi tiền và học tập cải tạo

Một thời gian ngắn sau khi tống giam hàng trăm ngàn quân nhân công chức chế độ Việt Nam Cộng Hòa vào cái gọi là trại cải tạo, nhà cầm quyền đã ban lệnh đổi tiền để tước đoạt tài sản người dân miền Nam. Có lẽ những người dân miền Nam từng sống dưới chế độ cộng sản còn nhớ là chỉ trong vòng 10 năm kể từ ngày chiếm miền Nam, cộng sản đã ba lần đổi tiền. Lần thứ nhất vào ngày 2 tháng 9 năm 1975 theo tỷ giá quy định là 500 đồng Việt Nam Cộng Hòa đổi lấy một đồng Giải Phóng, có nghĩa là năm đồng tiền cũ đổi lấy một xu tiền mới. Thêm nữa, mỗi hộ, tức mỗi gia đình, chỉ được đổi tối đa 200 đồng tiền mới, tức 100.000 đồng tiền cũ bất kể hộ có bao nhiêu nhân khẩu. Có nhiều người, ngay sau khi đổi tiền, cầm những tờ giấy bạc mới đứng khóc nức nở, khóc mùi mẫn nơi vệ đường.

Vì vậy, người dân có câu ca dao:

Năm đồng đổi lấy một xu

Thằng khôn đi học, thằng ngu làm thày

“Đi học” ở đây tức là bị học tập cải tạo còn “thày” tức cán bộ cộng sản phụ trách giảng dậy tại các trại cải tạo.

Cả nước thiếu ăn

Sau khi chiếm miền Nam, cộng sản xóa bỏ quyền tư hữu, áp đặt chế độ bao cấp như tại miền Bắc và phát tem phiếu để người dân xếp hàng mua nhu yếu phẩm tại mậu dịch, mà nhu yếu phẩm thì lúc có lúc không. Lúc bấy giờ dân miền Nam mới thấm thía hai câu nhại Kiều của người miền Bắc từ đầu thập niên 60:

Bắt phanh trần phải phanh trần

Cho may ô mới được phần may ô

(nguyên văn: “bắt phong trần phải phong trần,

cho thanh cao mới được phần thanh cao“).

 và

Từ khi ta có Bác Hồ

Nhân dân chẳng được ăn no ngày nào

Vài tháng sau, vật giá gia tăng một mức khủng khiếp. Rau muống là thức ăn chính của người dân. Có câu ca dao chơi chữ khá độc đáo mô tả tình trạng này:

Lương chồng, lương vợ, lương con

Đi ba buổi chợ chỉ còn lương tâm

Lương tâm đem chặt ra hầm

Với rau muống luộc khen thầm là ngon

Vài tháng sau nữa, lạm phát trở thành “siêu phi mã”. Lương tháng trung bình một công nhân viên khoảng 60 đồng tiền mới, chỉ mua được 30 bó rau muống. Người dân bèn réo tên ba lãnh tụ cao cấp nhất của đảng:

Anh Đồng, anh Duẩn, anh Chinh

Ba anh có biết dân tình cho không?

Rau muống nửa bó một đồng

Con ăn bố nhịn, đau lòng thằng dân

Rồi dân không còn đủ gạo để ăn với rau muống vì nhà cầm quyền thu gom gạo để trả nợ chiến tranh. Ngoại trừ những cán bộ trung cấp và cao cấp trong đảng, gần như cả nước đã phải nhai sắn thay cơm:

Ai sinh ra cái củ mì?

Hỏi : Để làm gì? Đáp : Để mà ăn!

Nước nhà mãi mãi khó khăn

Dân mình mãi mãi phải ăn củ mì

Ăn sắn, ăn mì, và đi dự các buổi học tập tại địa phương để hoan hô đảng và đả đảo Mỹ Ngụy là thời biểu bó buộc của người dân miền Nam lúc ấy:

Dân đói mà đảng thì no

Sức đâu ủng hộ, hoan hô suốt ngày

Đảng béo mà dân thì gầy

Độn bắp, độn sắn biết ngày nào thôi?

Chỉ đôi ba năm sau, ngô sắn cũng dần cạn, nhà cầm quyền cầu viện các đàn anh Đông Âu và được đàn anh viện trợ hữu nghị cho một món thực phẩm họ thường dùng cho ngựa ăn. Đó là bo bo, thứ thực phẩm được nhà nước cường điệu gọi là "cao lương". Trong suốt một thời gian dài cả nước vêu mồm ra mà thi nhau nhai thứ cao lương này. Dù có ninh kỹ và nhai kỹ đến đâu thì bo bo vẫn là thứ hạt bao tử con người không thể tiêu hóa nổi, ăn thế nào thì ra thế nấy. Bởi vậy người dân có ca dao rằng:

Hoan hô độc lập tự do

Để cho tớ nhá bo bo sái hàm

và:

Nhân dân thì chẳng cần lo

Nhà nước lo sẵn bo bo mỗi ngày

Hãy chăm tay cấy tay cầy

Nhịn ăn nhịn mặc chờ ngày vinh quang

Khi truyền miệng câu ca dao nêu trên, người dân miền Nam hóm hỉnh đọc trại chữ "l" thành "n" để chế nhạo các cán bộ miền Bắc phát âm sai hai chữ này. Vì vậy câu ca dao bỗng dưng mang một ý nghĩa khá khôi hài:

Nhân dân thì chẳng cần "no"

Nhà nước "no" sẵn bo bo mỗi ngày

Mùa hè năm 1980, nhằm mục đích tuyên truyền, cộng sản Việt Nam đã khẩn cầu Liên Xô cho Phạm Tuân làm “lơ” phi thuyền, tháp tùng phi hành gia Victor Gorbatco trong chuyến bay vào vũ trụ trên con tầu Liên Hợp. Lúc bấy giờ đang đói vêu vì thiếu ăn, nhân dân bèn có câu:

Một thằng lên vũ trụ

Trăm thằng đi Mút Cu (Moscow)

Nghìn thằng chè chén lu bù

Để dân bảy mươi triệu đói thò cu ra ngoài

 Có người tức quá nên hoạnh họe:

Nhân dân thiếu gạo thiếu mì

Mày vào vũ trụ làm gì hở Tuân???

Và người khác thực tế hơn:

Ai lên vũ trụ thì lên

Còn tôi ở lại ghi tên mua mì

Thiếu mặc

Tình hình miền Nam trong những năm đầu tiên bị chiếm đóng thật thê thảm. Người dân đã không đủ ăn thì làm sao đủ mặc. Mỗi năm, một người chỉ được mua vài thước vải xấu theo giá chính thức từ mậu dịch. Bởi vậy, dân gian có câu ca dao cười ra nước mắt:

Một năm hai thước vải thô

Nếu đem may áo cụ Hồ ló ra

May áo thì hở lá đa

Chị em thiếu vải hóa ra lõa lồ

Vội đem cất ảnh bác Hồ

Sợ rằng bác thấy tô hô bác thèm

 và:

Có áo mà chẳng có quần

Lấy gì hạnh phúc hỡi dân cụ Hồ?

Có đói mà chẳng có no

Lấy gì độc lập, tự do hỡi người?

Thiếu đủ thứ

Trong chế độ xã hội chủ nghĩa Việt Nam, không những người dân thiếu ăn thiếu mặc mà là thiếu đủ thứ, từ các nhu yếu phẩm cho đến tự do và hạnh phúc:

Ở với Hồ Chí Minh

Cây đinh phải đăng ký

Trái bí cũng sắp hàng

Khoai lang cần tem phiếu

Thuốc điếu phải mua bông

Lấy chồng nên cai đẻ

Bán lẻ chạy công an

Lang thang đi cải tạo

Hết gạo ăn bo bo

Học trò không có tập

Độc Lập với Tự Do

Nằm co mà Hạnh Phúc!

Tuy đã biến cả nước thành một nhà tù khổng lồ, đảng vẫn hạn chế sự đi lại của người dân. Muốn đi từ tỉnh này sang tỉnh khác, người dân phải xin giấy phép của chính quyền địa phương:

Mang danh Dân Chủ Cộng Hòa

Đi ra khỏi tỉnh phải qua cửa quyền

Xuất trình giấy phép liên miên

Chứng từ thị thực ở miền nào qua

Tình trạng này đã phát sinh một bài ca dao trào phúng, được phổ biến trên khắp các miền đất nước:

Trăm năm trong cõi người ta

Ở đâu cũng được đi ra đi vào

Xa xôi như xứ Bồ Đào

Người ta cũng được đi vào đi ra

Đen đủi như Ăng Gô La

Người ta cũng được đi ra đi vào

Chậm tiến như ở nước Lào

Người ta cũng được đi vào đi ra

Chỉ riêng có ở nước ta

Người ta không được đi ra đi vào

Trong những nạn nhân của chế độ, có cả những cựu cán binh cộng sản đã hưu trí, đặc biệt là những cán bộ tập kết miền Nam. Đó là những múi chanh đã bị đảng vắt hết nước. Vì vậy, văn học dân gian có câu:

Đầu đường đại tá vá xe

Cuối đường trung tá bán chè đậu đen

Giữa đường thiếu tá rao kem

Có những người còn ở trong hoàn cảnh nghiệt ngã hơn:

Ngày xưa chống Mỹ chống Tây

Ngày nay chống gậy ăn mày áo cơm

Kinh tế mới và thanh niên xung phong

Với sự hiểu biết thiển cận về kinh tế cộng thêm một ý thức hệ bệnh hoạn, năm 1976, các lãnh tụ của đảng cho thành lập những khu kinh tế mới tại những vùng rừng thiêng nước độc. Chỉ nội trong một năm, nhà cầm quyền đã đày khoảng 1,4 triệu người dân miền Nam đến sinh sống tại những khu hoang vu này, trong số đó có 700.000 dân Sài Gòn, hầu hết thuộc gia đình quân nhân, công chức chế độ Việt Nam Cộng Hòa. Bài ca dao dưới đây thuật lại hoàn cảnh đau lòng của những người bị lưu đày lúc bấy giờ:

Đuổi dân ra khỏi cửa nhà

Bắt đi kinh tế thật là xót xa

Không sao sống được cho qua

Nên đành lại phải trở ra Sài Gòn

Chẳng ai giúp đỡ chăm nom

Cùng nhau vất vưởng, lom khom vỉa hè

Màn sương chiếu đất phủ che

Sinh ra bệnh tật khò khè ốm đau

Nhưng mà có sống được đâu

Bộ đội kéo đến hàng xâu xúc liền

Chúng đem bỏ tại Tam Biên

Rừng sâu núi thẳm oan khiên buộc vào

Sáu ngàn nhân mạng năm nào

Thảy đều chết đói, biết bao nhục hình

Tháng 3 năm 1976, nhà cầm quyền phát động phong trào thanh niên xung phong để cưỡng ép sinh viên học sinh về miền quê công tác, chủ yếu là đào kinh. Có một câu ca dao khá ngộ nghĩnh, được truyền bá trong các đoàn thanh niên xung phong miền Nam lúc bấy giờ. Câu ca dao tuy mắng mỏ tổng thống Nguyễn Văn Thiệu nhưng gói ghém sự tiếc nuối những ngày tháng cũ:

Mồ cha thằng Thiệu rời dinh

Để tao ở lại đào kinh mỗi ngày

Chuyện dài Hợp Tác Xã

 Với chính sách kinh tế xã hội chủ nghĩa, cộng sản đã truất quyền tư hữu đất đai và các phương tiện sản xuất khỏi tay nông dân qua hình thức hợp tác xã tập thể. Qua hình thức này, nhà nước kiểm soát việc phân phối thực phẩm bằng cách thu mua và ấn định thuế khóa.

Câu chuyện nêu sau biểu lộ sự vô trách nhiệm của giới lãnh đạo đảng:

Vào thập niên 1990, nhà nước thúc dục người dân, nhất là dân miền Trung, bỏ trồng lúa để trồng mía làm đường. Tuy nhiên, sau khi ông Fidel Castro đến thăm Việt Nam, các nhà lãnh đạo đảng hứa giúp Cuba bằng cách nhập khẩu đường mía nước này vào thị trường Việt Nam. Sau đó, nhà nước thực hiện lời hứa, nhập khẩu đường Cuba suốt mấy năm liền. Hậu quả là nông dân trồng mía bị sạt nghiệp vì số mía thu hoạch phải bán tống bán tháo hoặc vứt bỏ. Vì vậy, người dân phẫn uất truyền miệng bài ca dao sau:

Bắt trồng mà chẳng thu mua

Tại sao đảng nỡ dối lừa nhân dân?

Tiền cầy, tiền giống, tiền phân

Một trăm thứ thuế đổ thân gầy gò

Dân đói mà đảng thì no

Kêu trời, kêu đất, kêu Hồ chí Minh!

Không những chỉ bị lỗ nặng vì trồng mía, người nông dân còn bị lao đao nhiều lần khác vì phải nghe lời nhà nước:

Trồng mía, trồng ớt, trồng hành

Vì nghe lời đảng mà thành bể niêu

Trồng tiêu rồi lại trồng điều

Vì nghe lời đảng mà niêu tan tành

Năm 1992, trong một bài viết tố cáo những sai lầm của cộng sản Việt Nam, thượng tọa Thích Quảng Độ thuật lại một câu chuyện thú vị ngài đã chứng kiến trong thời gian 10 năm bị quản thúc tại xã Vũ Đoài, tỉnh Thái Bình, từ 1982 đến 1992. Lúc bấy giờ, các cụ già tại địa phương này bị xung vào đội trồng cây của hợp tác xã để trồng cây lấy điểm, cứ trồng năm cây thì được một điểm, đủ để đổi lấy một lạng thóc. Khổ nỗi các cụ tuổi cao, sức kém, đã trồng không kỹ lại thiếu chăm sóc vì “cha chung không ai khóc”, nên cây trồng chỉ vài tuần sau là úa héo. Các em bé chăn trâu cho hợp tác xã mới làm vè trêu các cụ:

Hoan hô các cụ trồng cây

Mười cây chết chín, một cây gật gù

Nghe các cháu trêu, các cụ bèn phản pháo lại:

Các cháu có mắt như mù

Mười cây chết tiệt, gật gù ở đâu?

Chỉ một thời gian ngắn sau, hai câu đối đáp hài hước nêu trên đã trở thành ca dao thời đại mới.

Ấy thế mà cứ vài ba tháng, đảng lại phát động chiến dịch thi đua cho các hợp tác xã và thúc dục người dân làm việc bằng hai bằng ba theo lời khuyên của ông Hồ từ những ngày còn chiến tranh. Người dân bực quá nên có câu:

Thi đua làm việc bằng hai

Để cho cán bộ mua đài mua xe

Thi đua làm việc bằng ba

Để cho cán bộ xây nhà lát sân

Có người còn nhạo báng:

Thi đua ta quyết tiến lên

Tiến lên ta quyết tiến lên hàng đầu

Hàng đầu... rồi... tiến... về... đâu?

Nhiều phụ nữ đã từng trải qua lắm gian nan, khổ cực với hợp tác xã mà chẳng “ăn cái giải rút gì”, tức quá bèn văng tục:

Đi làm hợp tác hợp te

Không đủ miếng giẻ mà che cái l..

Xã hội bất công 

Điều nghịch lý là trong xã hội chủ nghĩa, một mặt đảng tuyên bố đấu tranh cho công bằng xã hội thì mặt khác, các nhà lãnh đạo lại tự cho mình hưởng những quyền lợi đặc biệt. Tại Hà Nội, người dân chua chát truyền khẩu những câu ca dao sau:

Tôn Đản là chợ vua, quan

Vân Hồ là chợ những gian, nịnh thần

Đồng Xuân là chợ thương nhân

Vỉa hè là chợ "nhân dân anh hùng"

Lãnh đạo giả dối

Có thể nói, trong hơn 50 năm qua, cộng sản Việt Nam cai trị đất nước bằng các thủ đoạn lừa bịp và dối trá. Trong một bài viết với nhan đề Nhật Ký Rồng Rắn được phổ biến ra hải ngoại đầu năm 2001, ông Trần Độ, cựu trung tướng quân đội Nhân Dân của cộng sản, đã tố cáo thủ đoạn này qua những lời lẽ sau:

“Nói thì ‘dân chủ, vì dân’ mà làm thì chuyên chính phát xít. Cái đặc điểm đó cũng có nghĩa là nói dối, nói láo, lừa bịp, trò hề, ‘nói vậy mà không phải vậy’.

Suốt ngày đóng trò, cả năm đóng trò. Ở đâu cũng thấy các vai hề, ở đâu cũng thấy các trò lừa bịp. Suốt ngày đêm, suốt năm tháng cũng lúc nào cũng chỉ nghe thấy những lời nói dối, nói lừa.

Chế độ này bắt mọi người phải đóng trò, bắt tất cả trẻ con phải đóng trò, bắt nhiều người già phải đóng trò

Đặc điểm này đã góp phần quyết định vào việc tạo ra và hình thành một xã hội dối lừa: lãnh đạo dối lừa, đảng dối lừa”.

Tại Việt Nam, một trong những cơ quan mang tiếng nhất về chuyện có nói thành không, không nói ra có là nha khí tượng: 

Bảo nắng mà trời lại mưa

Mấy thằng khí tượng đoán bừa hại tao

Trời làm một trận mưa rào

Mấy thằng khí tượng làm tao ướt rồi

Ấy thế mà theo người dân, nghệ thuật nói khoác của nha khí tượng còn kém xa những lãnh tụ cộng sản. Dưới triều đại Lê Duẩn, người có bí danh “Anh Ba”, thì kẻ đoạt quán quân về nói khoác lại chính là đồng chí tổng bí thư. Vì vậy, dân gian phát sinh ra câu ví von:

Thứ nhất anh Ba, nhì Nha Khí Tượng

Câu ca dao thời đại sau đây đã nói lên bản chất dối trá và hợm hĩnh của đảng:

Mất mùa là bởi thiên tai

Được mùa là bởi thiên tài đảng ta

 

(còn tiếp)