Bách Việt trong lòng Đại Việt (Phần 1) |
Tác Giả: Nguyễn Xuân Phước | |||
Chúa Nhật, 02 Tháng 8 Năm 2009 14:02 | |||
Để tưởng nhớ Phạm Việt Châu, tác giả “Trăm Việt Trên Vùng Định Mệnh” Lời nói đầu: Lịch sử Đại Việt thời kỳ hậu Hán thuộc ghi dấu sự xuất hiện của một số dòng họ ở Trung Hoa xuống phương nam lập nghiệp và làm thành đế nghiệp như nhà Tiền Lý, nhà Trần, nhà Hồ và nhà Tây Sơn. Bài viết nầy nhằm giải thích hiện tượng nầy và xét lại quan điểm lịch sử của các sử gia trưóc đây. Người Việt chúng ta thường cho rằng mọi hình thức văn hoá và con người phát xuất từ phương bắc của Việt Nam, đặc biệt là từ vùng Hoa Nam của Trung quốc, đều thuộc về Trung Hoa. Chúng ta vẩn gọi chung người Quảng Đông, Phúc Kiến, Triều Châu, Hải Nam, Hẹ (Hakka) là người Tàu hay người Hoa, kể cả toàn bộ người dân sống ở những vùng này cách đây hàng mấy ngàn năm cũng là người Tàu. Chữ “Tàu” hay “Hoa” hàm ý nghĩa họ là những người khác chủng với dân tộc Việt. Họ là người Trung Hoa, hay ngườì Hán. Quan điểm nầy trước hết sai lầm về mặt lịch sử và phát triển địa lý của dân tộc và đất nước Việt và Trung Hoa. Lịch sử hình thành của Trung Hoa hiện đại gắn liền với lịch sử xâm lăng lãnh thổ và đồng hoá dân tộc Việt ở phưong nam. Mặc dù trong 60 năm qua, một số nhà nghiên cứu đã nỗ lực đặt lại vấn đề văn hoá cũng như lịch sử cổ đại của Việt Nam, sự thiếu nhận thức về lịch sử ở tầng lãnh đạo đất nước làm cho chúng ta có nhận định sai về nguồn gốc chủng tộc của người Trung Hoa. Sự thể nầy tạo cho Hoa Kiều sống tại Việt Nam một mặc cảm tâm lý chủng tộc khó hội nhập vào cộng đồng dân tộc. Sự nhầm lẩn nầy tạo nhiều bất lợi cho nền kinh tế và văn hoá nước nhà. Bên cạnh đó nước Trung Hoa to lớn về dân số lẫn đất đai không thể nào bỏ qua việc vận dụng thành phần người Hoa sinh sống ở nước ngoài để biến họ thành “khúc ruột ngàn dặm” làm công cụ phục vụ cho chính quyền Hoa Lục. Quan điểm sai lầm nầy của người Việt đối với người Hoa phát xuất từ quá trình đồng hoá quá lâu của người Hán đối với các dân tộc Bách Việt tại vùng Hoa Nam. Đồng thời nó phát xuất từ những nhận định sai lầm về lịch sử của các triều đại trước đây. Ngày nay những nổ lực khám phá về lịch sử và địa lý miền Hoa Nam cổ đại, cũng như những nghiên cứu về chủng tộc dựa trên DNA đã chiếu những ánh sáng mới giúp chúng ta đặt lại một số vấn đề cơ bản về chủng tộc và lịch sử. Những nhận định cơ bản nầy sẽ là nền tảng lý luận giúp chúng ta có một cái nhìn hợp lý hơn về sử học nước nhà, một chính sách ngoại giao dựa vào văn hoá đồng chủng với các nước Đông Nam Á và các đảo quốc ở Thái Bình Dương, và một sách lược văn hoá đối với người Hoa đang sinh sống tại Việt Nam. Địa Lý Bách Việt miền Hoa Nam thời cổ đại Sự hiện diện của văn minh Bách Việt thời Thương Chu trong lịch sử Trung Hoa được đánh dấu bằng câu chuyện sứ giả Việt Thường ở phương nam đem Bạch Trĩ và Rùa sống ngàn năm để cống dâng cho vua nhà Chu là Chu Thành Vương. Đó là lần đầu tiên sử Trung Hoa ghi nhận dân tộc Việt ở phưong nam. Địa lý nhà Chu bấy giờ chỉ kéo dài tới sông Hoàng Hà. Đến thời Chiến Quốc, khoảng 500 trước công nguyên, một số dân tộc ở Nam Trung Hoa mới xuất hiện trong sử Trung Quốc. Nổi bật nhất là các nước Sở, nước Ngô và nước Việt. Đến đời Tần Hán (256-195 TCN), khi các nước Sở, Ngô, Việt bị Tần Thủy Hoàng sát nhập vào Trung Hoa, phía nam nước Sở vẫn còn là chủ quyền của các dân tộc Bách Việt hoàn toàn độc lập và tự chủ. (Xem bản đồ Trung Hoa thời Tần Thủy Hoàng. Như thế cho đến khoảng 195 năm TCN, một vùng địa lý to lớn miền Hoa Nam ngày nay là lãnh thổ của các giống dân Việt. Truyền thuyết cho rằng rằng dân tộc Việt phát xuất từ Động Đình Hồ miền Lĩnh Nam. Sách Lĩnh Nam Chích Quái của Trần Thế Pháp ở thế kỷ 15 kể Truyện họ Hồng Bàng như sau: “Đế Minh cháu ba đời họ Viêm Đế Thần Nông sinh ra Đế Nghi, sau nhân đi tuần về phía Nam đến núi Ngũ Lĩnh lấy được con gái bà Vụ Tiên rồi trở về, sinh ra Lộc Tục. Tục dung mạo đoan chính, thông minh phúc hậu, Đế Minh rất lấy làm lạ, muốn cho nối ngôi mình. Ngũ Lĩnh là năm rặng núi lớn ở Nam Trung Hoa thuộc miền Lĩnh Nam. Miền Lĩnh Nam được sử tây phương viết như sau “Lĩnh Nam là vùng đất phiá nam của rặng Ngũ Lĩnh gồm các rặng Đại Dũ /Dữu Lĩnh, Kỵ Điền Lĩnh, Đô Bàng Lĩnh, Manh Chử Lĩnh và Việt Thành Lĩnh. Vùng nầy gồm các tỉnh Quảng Đông, Quảng Tây, Hồ Nam và Giang Tây của Trung Hoa hiện đại. Vùng nầy do dân Bách Việt sinh sống và là tổ quốc của dân Nam Việt cổ đại” Tác giả Việt Sử Thông Luận cho rằng, sau khi mất bản địa Thái Sơn (tỉnh Sơn Đông, bắc Trung Hoa), Con cháu Thần Nông đã rút quân về Động Đình Hồ để xây dựng căn cứ địa văn hoá mới cho dân Việt. Tướng của Đế Minh là Xi Vưu ở lại giữ Thái Sơn và sau ba năm chiến đấu chống tù trưởng của nòi Hán là Hiên Viên, quân của Xi Vưu tan rã và từ đó, dân Việt mất căn cứ địa văn hoá Thái Sơn. Hiên Viên chiếm đưọc thái Sơn lên ngôi là Hoàng Đế. Ngày nay, dân tộc Việt chỉ còn câu ca dao: “Công cha như núi Thái Sơn, Nghĩa mẹ như nước trong nguồn chảy ra” để ghi dấu cái nôi văn hoá đầu tiên của dân Việt. Khi Lưu Bang cướp ngôi nhà Tần ở phưong bắc, thì ở phương nam, Triệu Đà đã thống nhất được các nước Bách Việt trong đó có cả nước Âu Lạc của tổ tiên chúng ta để lập ra nưóc Nam Việt. Đó là cuộc thống nhất Bách Việt lần thứ nhất. Nhà Triệu truyền ngôi được 4 đời thì bị nhà Hán xâm chiếm và miền Lĩnh Nam bị bắc thuộc từ đó. Đến thời kỳ Hai Bà Trưng, 40 năm sau công nguyên, Hai Bà đã chiếm lại toàn vùng Hoa Nam. Sử viết: “Các quận Nam Hải, Cửu Chân, Nhật Nam, Hợp Phố đều hưởng ứng. Hai bà lấy được 65 thành ở Lĩnh Nam. Trưng Trắc tự lập làm vua, xưng là Trưng Nữ Vương.” Đây là cuộc thống nhất Bách Việt lần thứ hai. Do đó, khi truy tầm nguồn gốc Bách Việt của dân tộc Việt cần để ý các vần đề sau đây: - Từ thời cổ đại cho đến khi nhà Triệu mất ngôi (111 TCN), dân tộc Việt đã chiếm lĩnh miền Hoa Nam. Một số nước Việt giáp biên giới với nhà Chu thường được đề cập đến trong sử sách Trung Hoa, đó là Sở (Kinh Việt), nước Việt (với Viêt Vương Câu Tiển), Ngô Việt (với Ngô Phù Sai). Khi nhà Tần thống nhất thiên hạ, các nước Việt trên bị sáp nhập vào nhà Tần. Còn các nước Việt khác như Âu Việt, Mân Việt, Thái Việt, Điền Việt, Lạc Việt, Việt Thường và một số nước Việt khác phiá nam vẫn còn giữ được nền độc lập. - Cần nghiên cứu thêm nguồn gốc của chữ người Kinh. Cổ sử Trung Hoa dùng chữ “người Kinh” để nói đến dân tộc Sở và một số dân tộc phía nam sông Hoàng Hà. Tại sao ngày nay ngưòi Việt tự gọi là ngưòi Kinh để phân biệt người Việt với người thuộc chủng tộc khác. - Cần xem khám phá của Stephen Oppenheimer tác giả Eden in the East: The Drowned Continent of Southeast Asia (Địa Đàng ở Phương Đông: Lục Địa Chìm của Đông Nam Á) để thấy nền văn minh Hoa Nam trãi dài xuống Đông Nam Á và các hải đảo ở Thái Bình Dương. Các dân tộc như Mân Việt, Ngô Việt, Âu Việt gồm các bộ tộc, Phúc Kiến, Triều Châu, Quảng Đông, Quảng Tây, Hẹ, Hải Nam, Đài Loan, Thái, Nam Dương và các thổ dân ở vủng đảo Thái Bình Dương đều có nguồn gốc Bách Việt. - Do các dân tộc Bách Việt đã sinh sống ở miền Hoa Nam trưóc khi vùng nầy bị Tần Hán xâm lược, dân Việt phải là chủ nhân ông nền văn hoá thời bấy giờ. Các khám phá khảo cổ về văn minh Hoa Nam trước thời Tần và Hán thuộc phải được coi là chỉ dấu của văn minh Việt, chứ không thể là của Hán tộc. Người Việt cần phải coi đó là di sản của Việt tộc và phải mạnh dạn giành lại chủ quyền văn hoá của mình. - Các nhà nhân chủng học Đài Loan gần đây đã tìm cách phục hồi lại nguồn gốc Bách Việt của người Đài Loan như Phúc Kiến (Minnan, có lẽ là Mân Việt) và Hẹ (Hakka) là hai giống dân đông nhất trên đảo. Hiện nay có nhiều nghiên cứu về DNA đã xác định quan hệ chủng tộc của các dân tộc Bách Việt. Công trình nghiên cứu nguồn gốc chủng tộc dựa vào gen di truyền (DNA) của M. Liu thuộc Mackay Memorial hospital và được Viện Nghiên Cứu Sức Khoẻ quốc gia của Đài Loan tài trợ chứng minh là các giống dân miền Hoa Nam, Việt Nam, Thái Lan, Mã Lai, Nam Dương có liên hệ gen di truyền khác biệt với chủng tộc Hán ở miền bắc. Những nổ lực của các nhà văn hoá Việt nam hiện đại cùng với những khám mới về nhân chủng học dự vào di truyền học đã chiếu ánh sáng vào lịch sử nòi giống Bách Việt. Ánh sáng lịch sử nầy giúp chúng ta có nhận định sử trung thực hơn. Thông hiểu được lịch sử và văn hoá dân tộc, chúng ta mới có được nội lực làm hành trang cho hành trình dân tộc vào thế kỷ 21. Vấn đề người Tàu lập đế nghiệp ở Đại Việt Sau khi đã xác định được địa lý văn hoá vùng Bách Việt chúng ta hãy trở về với một bí ẩn lịch sử của dân tộc ta. Đó là từ nhà tiền Lý (Lý Nam Đế) đến nhà Tây Sơn, một số các các triều vua lớn được sử sách của ta cho là có gốc từ Tàu. Về Lý Nam Đế, sử gia Trần Trọng Kim viết: “Lý Bôn, có người gọi là Lý Bí, vốn dòng dõi người Tàu. Tổ tiên ở đời Tây Hán phải tránh loạn chạy sang Giao Châu, đến lúc bấy giờ là bảy đời, thành ra người bản xứ.” Về dòng dõi nhà Trần, Đại Việt Sử Toàn Thư viết về gia phả của vua Trần Thái Tông như sau: “trước kia tổ tiên vua là người đất Mân, (có người nói là Quế Lâm), có người tên là Kinh, đến ở hương Tức Mặc phủ Thiên Tường, sinh ra Hấp, Hấp sinh ra Lý, Lý sinh ra Thừa, đời đời làm nghề đánh cá. Vua con của Thừa, mẹ họ Lê … (ĐVSKTT tr. 159) Về Hồ Quí Ly, Đại Việt Sử Ký toàn Thư viết: “Quý Ly, tự là Lý Nguyên, tự suy tổ tiên là Hồ Hưng Dật vốn ở Chiết Giang, đời Hậu Hán, thời Ngũ Quí sang làm thái thú Diễn Châu.” (ĐVSKTT tr 293). Về nhà Tây Sơn, Việt nam Sử Lược của Trần Trọng Kim viết: “Nguyên tổ bốn đời của Nguyễn Nhạc là họ Hồ, cùng một tổ với Hồ Quí Ly ngày trước…” (VNSL Trần trọng Kim tr. 144). Như thế thì có ít nhất là bốn triều đại như Tiền Lý, Trần, Hồ, Tây Sơn đều là người gốc ở phương bắc và xuống phương nam lập nên đế nghiệp. Phải chăng những vị lập nên các triều đại nầy là người Hán? Để giải đáp bài toán lịch sử nầy chúng ta phải xét lại hiện tượng phục hoạt của Việt tính hay ý thức Việt hay căn cước Việt tộc ở các triều đại nói trên. Sự phục hoạt của Việt tính trong thời kỳ Bắc thuộc Từ khi cuộc kháng chiến chống quân Hán xâm lược của Lữ Gia và Triệu Dương Vưong thất bại (111 TCN) đất Nam Việt bị nhà Hán chiếm đóng và danh xưng Việt đã bị linh lạc bởi quá trình đô hộ và đồng hoá. Từ thời kỳ Hán thuộc trở đi, danh xưng Việt đã biến mất trong các sách sử của Trung Quốc, và được thay thế bằng hai chữ An Nam và Giao Chỉ. Khoảng cách thời gian giữa Lữ Gia và Lý Bôn là hơn 650 năm. Tại sao khi Lý Bôn (544) lên ngôi ông lấy đế hiệu là Nam Việt Đế? Ý thức Việt trong đế hiệu đó ở đâu ra? Lịch sử chiếm đóng miền miền Lĩnh Nam của nhà Hán đi liền với những nổi dậy của dân tộc Việt và những cuộc đàn áp khốc liệt. Suốt hai ngàn năm, địa danh Lĩnh Nam biểu tượng cho tinh thần chống lại Hán hoá. Ngưòi dân miền nầy được gọi là “Lục Lương” hay “Cường Lương” nghĩa là dân cứng cổ. (theo Lê Văn Siêu và Lý Đông A). Khi sử gia Trần Trọng Kim viết: “Tổ tiên (Lý Bôn) ở đời Tây Hán phải tránh loạn chạy sang Giao Châu.” người đọc sử phải hiểu rằng “Loạn” là những cuộc nổi dậy của dân bản địa nổi lên đánh đuổi chính quyền đô hộ phương bắc. Những người dân thường chạy loạn thì trở về quê cũ khi hoà bình đưọc tái lập. Ở đây tổ tiên Lý Bôn chạy loạn mà phải bỏ xứ đi luôn, đi tận đến đất Giao Chỉ cách đó cả ngàn dặm đề lập nghiệp. Như thế thì tổ tiên không phải là hạng dân thưòng. Chúng ta có thể suy diễn rằng, tổ tiên Lý Bôn là những ngưòi lãnh đạo phong trào kháng chiến và họ đã phải bỏ xứ chạy trốn để tránh sự trừng phạt của triều đình sau khi cuộc kháng chiến thất bại. Đây là lý do hợp lý nhất để giải thích sự kiện dòng họ Lý Bôn đã đi về phương Nam. Khi đã định cư ở Âu Lạc, dòng họ nầy vẫn ấp ủ tinh thần Phục Việt từ thế hệ nầy qua thế hệ khác. Chỉ bằng sự xác định được quan hệ giữa Bách Việt và Lý Bôn chúng ta mới hiểu được tại sao ý thức Việt đã được phục hoạt trong phong trào độc lập của nhà Tiền Lý. Nếu nói “Lý Bôn là dòng dõi người Tàu” như sử gia Trần Trọng Kim viết, thì e rằng chúng ta không giải thích được hiện tượng phục hoạt danh xưng Việt ở thời kỳ đó. (còn tiếp)
|