Không biết mọi người ra sao, riêng tôi càng lớn tuổi càng thích lục lọi tìm những tấm ảnh cũ, mà mỗi tấm ảnh dù đẹp hay xấu, đã ố vàng với thời gian đều chất chứa ít nhiều kỷ niệm của nơi chốn.
Không biết mọi người ra sao, riêng tôi càng lớn tuổi càng thích lục lọi tìm những tấm ảnh cũ, mà mỗi tấm ảnh dù đẹp hay xấu, đã ố vàng với thời gian đều chất chứa ít nhiều kỷ niệm của nơi chốn.
Tháng Bảy vừa qua, người bạn thân thời thơ ấu từ Đan Mạch, viết thư cho tôi khoe vô tình xem lại những tấm ảnh ngày đám cưới cuả bạn, đã nhìn thấy hình hai bà cụ (mẹ tôi và mẹ bạn). Tấm ảnh ấy chụp tháng 12 năm 1974, hôm đó tôi bận đi xa nên không đến tham dự được ngày vui cuả bạn.
Lòng bồi hồi vô tả, tôi viết thư bảo bạn gửi ngay cho tôi tấm hình ấy qua email là tiện nhất. Nôn nao quá, bởi vì ngày xưa mẹ tôi ít khi chụp ảnh cho nên tìm một tấm ảnh cũ cuả mẹ không dễ gì kiếm được. Tôi muốn biết khuôn mặt mẹ tôi thời gian ấy ra sao, so với hình ảnh gầy còm cuả bà cụ già những ngày cuối đời khác nhau như thế nào, vì mốc thời gian thường nhận rõ trong những tấm ảnh.
Hôm nhận tấm ảnh cũ có hình bóng cuả mẹ tôi, tôi cứ tưởng như mẹ tôi vưà từ cõi bên kia trở lại với tôi trong một tích tắc cuả thời gian, khiến tôi chảy nước mắt. Tấm hình tuy không rõ lắm, nhưng cũng đủ cho tôi nhìn ra khuôn mặt mẹ mình, vẫn vẻ chịu đựng cố hữu cuả người đàn bà gần như cả đời chịu quá nhiều vất vả lo cho con cái ăn học, chống chỏi đơn độc với bao nhiêu nỗi buồn vây bủa.
Mẹ tôi không cười, chẳng có tấm hình nào còn giữ lại tôi nhìn thấy nụ cười cuả mẹ, chắc không phải vì nghiêm trang mà không nở được nụ cười, phảng phất trong tấm ảnh nào tôi cũng nhìn ra được nỗi buồn cuả mẹ. Chưa đầy bốn mươi tuổi mẹ tôi đã goá chồng, hoàn cảnh bi đát ngổn ngang vì thời gian ấy đất nước chia hai, lạc mất con cái trong thời ly loạn. Cuối năm 54 khi cha tôi chết rồi mẹ tôi mới tất tả dắt ba đứa con dại vào Nam, thân phận đàn bà yếu đuối như chiếc lá phải dựa dẫm vào họ hàng làng nước để sống còn, trong lúc gần như trắng hai bàn tay với cảnh đời đơn độc.
Mẹ tôi vất vả xoay sở và rất tằn tiện để có tiền gửi các chị tôi đi học xa, công việc cuả mẹ tôi nếu đem so với những người phụ nữ có nhiều điều kiện trong xã hội thời điểm đó chắc không có gì để hãnh diện vì nó rất tầm thường. Những điều đó dần dần đã chứng minh qua thời gian, mở to đôi mắt nhìn cuộc đời qua nhiều lăng kính khác nhau, anh chị em tôi mới nhìn ra điều cao quý đó chính là trái tim người mẹ.
Tôi nhìn mãi khuôn mặt buồn buồn cuả mẹ trong tấm ảnh nhận được, mỗi lần nhìn tôi lại thấy lòng rưng rưng. Hình như tôi đã có quá nhiều thiếu sót và lầm lỗi, khi không trả được cho mẹ những gì mình đã nhận, đó là lý do làm tôi bứt rứt. Rồi nhớ lại quãng ngày tôi được sống gần mẹ, được mẹ che chở ủi an mà lại hững hờ xem đó chỉ là điều tự nhiên mình được hưởng. Chắc mẹ tôi không đòi hỏi gì nơi tôi ngoài điều mong mỏi tôi sống cho ra một người tử tế.
Khi gia đình khấm khá nhà cửa bề thế hơn, cả nhà thường khó chịu và xấu hổ vì mẹ tôi hay nhặt nhạnh, hỏi xin quần áo cũ, vật dụng phế thải cuả những gia đình giàu có dư thừa quen biết, đem về gom vào một chỗ. Các con trong nhà ai cũng phàn nàn cái tính dở người cuả bà cụ, có người lại phân tích tâm lý cho rằng cuộc đời mẹ tôi vì trải qua những lúc ghê gớm nhất như trận đói năm Ất Dậu, vàng bạc mang theo bị lột sạch trước khi xuống cảng Hải Phòng ngày di cư vào Nam, đã ám ảnh mẹ tôi đến nỗi phát sinh tính lo xa, chắt bóp, tằn tiện của bà. Mãi sau này khi lâm vào cảnh đời tăm tối, tôi mới hiểu và cảm kích được tấm lòng nhân ái cuả mẹ tôi đã bị các con hiểu lầm.
Những món mẹ nhặt nhạnh được lần hồi cũng vợi đi, đổi lại là ánh mắt, nụ cười cuả những gia đình nghèo khổ từ trong quê chạy ra thành phố trong thời kỳ chiến tranh, sống trong những mái lá lụp xụp vách được chèn bằng vài tấm thiếc mỏng nhặt nhạnh ngoài bãi rác. Trong đống đồ đạc cuả họ thế nào cũng lôi ra được vài bộ quần áo cũ, cái nồi sứt quai, đôi dép cũ, con búp bê gãy tay cho một đứa bé mà mẹ tôi đã lượm lại từ những nhà dư ăn dư mặc. Niềm hạnh phúc cuả họ sau này tôi đã cảm nhận rõ đến chảy nước mắt, khi nhớ lại một muà Xuân khốn khó nhất trong đời mình sau năm 1975, ngày cuối năm vẫn còn phải chạy ăn. Buổi chiều về nhà thấy con mình đang tíu tít mừng rỡ ôm gói quà cuả một người bạn ghé thăm chiều 30, những quả chuối khô, thèo lèo, mứt dừa, mứt bí nằm lẫn lộn với nhau trong cái túi ny lông, kèm theo mấy chữ cuả người bạn cũ khiến tôi xúc động đến lặng người ...
Nhờ phương tiện vi tính, tôi làm lại tấm ảnh cuả mẹ cho sáng đẹp hơn rồi cất vào một chỗ riêng để lâu lâu lại lôi ra nhìn lại, mỗi lần nhìn là mỗi lần cảm thấy nỗi rung cảm sâu sa tận đáy tâm hồn. Trong những tấm ảnh cũ thời thơ ấu, mẹ tôi còn giữ hộ cho tôi hai tấm ảnh nữa. Một tấm tôi đứng trước sân nhà, cô bé lên sáu tuổi diện cái váy đầm viện trợ Mỹ rất dễ thương, nghiêng đầu cười chúm chím khi được ông anh ở xa về bế phổng lên đặt trên đống củi. Còn một tấm nữa chụp chung với con bạn hàng xóm, hai đứa trạc tuổi nhau nhưng nó cao, gầy, nước da ngăm đen, vì thế trông có vẻ khôn hơn con bạn láng giềng mũm mĩm. Bây giờ thì bạn tôi cũng mới đi về bên kia thế giới rồi, đời vô thường một ngày nào sẽ mang đi tất cả.
Các anh chị lớn lên rồi đi xa, chỉ có hai đứa bé ở nhà với mẹ. Chị tôi lên mười, tôi lên tám, hai đứa bé mồ côi cha quấn lấy mẹ, gia cảnh rất là thanh bạch. Hai chị em thương nhau lắm, chỉ chênh nhau hai tuổi nên lúc nào cũng quấn quýt bên nhau không rời nửa bước. Tôi tròn trĩnh mập mạp, chị lại bé quắt như quả trám. Mẹ tôi bảo chị tuổi Hợi, đáng lẽ lợn nằm chuồng an nhàn sung sướng nhưng số chị lại vất vả, ra đời đúng năm loạn lạc, chạy tản cư nên vì thế khi sinh chị tôi, mẹ không có gì ăn, bị thiếu sữa chị phải uống nước cháo. Ngày hồi cư nhà lại chưa khấm khá, chị ốm đau luôn, quặt quẹo buồn rầu như một con chó ốm. Không hiểu có phải vì thế mà ảnh hưởng đến cuộc đời chị sau này, từ tâm hồn cho đến thể chất, chị hay buồn mà cũng dễ tủi thân.
Tôi không bao giờ quên được căn nhà thời thơ ấu ở miền Nam, bắt đầu một cuộc đời mới cuả bà mẹ hiền góa bụa. Chỉ có hai chị em chơi với nhau quanh quẩn trong khu vườn rộng, bao quanh là những bụi tre, cùng những cây ổi, cây mít, cây na và bao nhiêu thứ rau dại mọc tràn lan khắp vườn. Sáng ra trên mặt đất ẩm, lũ giun đã ùn lên những ụ đất xinh xinh. Trong khu vườn ấy mẹ tôi mùa nào thức nấy, rau cỏ hai bữa cơm cứ theo đó mà thay đổi. Khi trồng khoai, lúc trồng đậu, củ khoai nóng thơm lừng lùi trong bếp lửa là món quà nhà quê rất thú vị. Những đọt đậu đen bùi bùi cho bữa cơm chiều, thêm bát tương quả cà của mẹ tôi, cuộc sống cứ vậy trôi đi êm ả theo tiếng gà eo óc lúc ban trưa, tiếng chó sủa vu vơ trong xóm vắng, tôi vẫn cho là những kỷ niệm đẹp nhất trong thời niên thiếu.
Những khi mẹ vắng nhà, lâu lâu mẹ tôi lại phải lên vùng cao nguyên để mua xương cọp, xương nai về nấu cao làm thuốc. Ðó là nghề gia truyền của bên ngoại hồi mẹ tôi chưa đi lấy chồng, bây giờ khi cần đến mẹ tôi đã có ít nhiều kinh nghiệm. Mỗi lần đi vắng mẹ tôi phải gửi con cho người hàng xóm dăm bữa, ở nhà chỉ còn có hai chị em, lúc ấy chị tôi còn bé tẻo teo mà đã phải đóng vai người mẹ lo cho em ăn khi đói, dỗ em khi em khóc, và lúc trời ngả bóng chiều nhập nhoạng tối là tôi bắt đầu làm khổ chị.
Ban ngày, củ khoai cái bánh cục kẹo, rồi loanh quanh trong khu vườn hoa, mải chơi nên tôi ít nhớ mẹ, nhưng cứ trời về chiều, mấy con gà gọi nhau về ổ, những bóng đen của cây cỏ nhảy múa trong khu vườn tối, tôi bắt đầu buồn và nhớ mẹ lắm. Bữa cơm chiều chỉ có hai đứa trẻ con với nhau, dưới ngọn đèn hoa kỳ vừa đủ sáng. Sau bữa cơm là chị tôi học bài, học như cuốc kêu mùa, hè, cố đọc to như để trấn áp nỗi sợ vu vơ của đủ thứ hình bóng ma quỷ ngoài cửa sổ. Tôi bắt đầu sụt sịt, mũi và hai vầng chân mày đỏ ửng lên, rồi như một cơn lũ ùng ục dâng lên tận họng, tôi bắt đầu gào to trong nỗi cuống quýt của chị. Chị bé quắt như con gà con, vừa học bài vừa dỗ em, em cứ gào lên khóc, khiến chị tủi thân cũng òa khóc theo, hai con chim non liếp chiếp trong một cái tổ khi mẹ đi kiếm ăn, chắc cũng tội nghiệp như thế!
Nhắc đến những mùa Xuân thời thơ ấu, sống trong căn nhà đơn sơ, đón những cái Tết nghèo nàn trong sự lo toan vất vả của mẹ tôi, tôi lại nhớ đến những bức tranh Gà tranh Lợn, được in trên những tấm giấy dài ngoẵng để treo trên vách đón Xuân sang cho xôm nhà xôm cửa. Hai chị em dành dụm được ít tiền rủ nhau đi chợ Tết, vì đó là những phiên chợ vui nhất trong năm. Chúng tôi sà vào gian hàng của người bán tranh dạo bày la liệt trên mảnh ni lông trên nền đất. Con gà mẹ dẫn đàn con đi ăn, trông líu ríu rất dễ thương, còn anh gà trống mào đỏ như son, đứng oai vệ trên cành cây đang rướn cổ lên gáy. Mấy con lợn con ủn ỉn quây quanh bà mẹ nái xề lòng thòng vú mớm, xục mõm vào những ụ đất trong vườn, đều gợi lên trong lòng đám trẻ nhỏ màu sắc tươi vui của một đời sống bình dị và êm ả vẫn thường thấy ở nhà quê.
Nhưng có lẽ màu sắc từ những bức tranh lợn, tranh gà mới bắt mắt với lũ trẻ nhiều hơn, khi lớn lên óc mỹ thuật cho người ta nhìn những bức tranh cuộc đời với màu ảm đạm là đẹp và nghệ thuật. Thế nhưng những tấm tranh giấy dài thượt có con gà, con lợn đầy màu sắc vẫn để lại trong ký ức của chị em tôi những nỗi vui thầm kín rất dễ thương. Mùa Xuân năm đó hai chị em khuân về nhà những bức tranh gà tranh lợn, hí hửng với mùa Xuân trẻ thơ làm căn nhà nghèo nàn rực rỡ hơn, anh tôi đi làm xa về nhà ăn Tết.
Cảm giác của hai đứa trẻ con thật ngỡ ngàng khi anh tôi cau mày xé toạc những tấm tranh Gà tranh Lợn mà hai đứa em đã dành tiền để mua, đang vui vẻ vì tưởng đem được mùa Xuân cho căn nhà nhỏ. Chúng tôi còn ngây thơ nên không hiểu sao anh tôi lại xé đi những bức tranh màu sắc đẹp như vậy, hóa ra cái nhìn của người lớn không bao giờ giống trẻ con. Người lớn đối với chúng tôi thật khe khắt và kỳ cục, bắt trẻ con theo ý thích cuả họ. Mặc dù thất vọng vì bị đánh mất niềm vui, chúng tôi vì sợ anh nên chỉ im lặng nhìn nhau, rồi dẫn nhau ra mảnh vườn hoa của mình khóc thút thít ...
Chị tôi lớn dần lên và mẹ cho chị đi học xa, mỗi năm chỉ về nhà chơi với em vào dịp hè, dịp Tết, những bức tranh gà tranh lợn đã chìm vào quá khứ. Đời chị hình như cứ hay buồn vì hai chữ định mệnh đặt để lên mỗi con người. Bên bờ giếng có cây hoàng lan tỏa mùi thơm ngọt ngào, con chim khuyên vẫn nhảy nhót tìm mồi, đời đã buồn gì đâu mà sao trên khuôn mặt chị tôi lại nhìn được nét u uẩn dấu trong ánh mắt. Tự nhiên tôi nghĩ đến cây thập giá mạ vàng chị tặng tôi hồi nhỏ, linh cảm rằng cuộc đời chị sẽ là một chuỗi buồn khổ triền miên.
Năm sắp lên Ðại Học chị đã có người yêu. Chị cũng biết làm thơ, bài thơ đầu đời của chị tôi vẫn nhớ:
"Anh thổi sáo cho hồn em ngất ngây
Hồn chơi vơi với tiếng sáo dâng đầy
Và kề môi em tập làm nghệ sĩ
Em chợt buồn trong tiếng sáo thơ ngây."
Nỗi rung cảm với nụ hôn đầu của đời thiếu nữ, chỉ một lần duy nhất chị làm thơ. Sau đó mối tình học trò vỡ tan khi người yêu của chị lên đường nhập ngũ, rồi vì hoàn cảnh lại xa nhau, cứ hẹn hoài rồi biền biệt đến thiên thu. Chị hay rủ tôi đi tản bộ những đêm trăng, trên con đường tráng xi măng dẫn vào một ngôi chùa nhỏ, thủ thỉ kể tôi nghe nhiều chuyện, có lẽ ngày xưa chị và người yêu đã nhiều lần từng chung bước dưới ánh trăng, nghe như bao niềm yêu còn vướng vít trên từng bụi hoa cỏ mọc ven đường ...
Khi gia đình vì thời cuộc phải chuyển về thành phố ở miền Tây, thời Trung Học tôi chở chị đến trường bằng chiếc xe đạp của mình, không hiểu sao những người bạn học của chị cũng nằm trong trí nhớ của tôi, trở nên thân thiết để biết rõ tâm tư, hoàn cảnh của từng người. Ngồ ngộ nhất là những khuôn mặt trẻ đang tập làm người lớn, tâm hồn bị giao động khi một đêm nào đó nghe tiếng đại bác dội về thành phố, ánh hỏa châu lơ lửng giữa đêm đen, người bạn cùng lớp lên đường nhập ngũ, người cha nằm xuống sau trận đánh kinh hoàng, tất cả đều để lại nỗi suy tư trong lòng đám trẻ chúng tôi dạo ấy ...
Chiến tranh. Là một điều gì buồn bã, cộng thêm những nỗi chia xa trong cuộc đời nặng trĩu tâm tư tuổi thanh xuân của chị em tôi. Là một cái gì lạnh lẽo, sắc nhọn như miểng đạn dội vào thành phố lúc nửa đêm, buổi sáng hôm sau đạp xe đi học, gặp ông thầy Việt Văn mặt mũi bơ phờ, thầy trò nhìn nhau cười, nụ cười chết chóc, kinh hoàng của chiến tranh còn đọng lại trên những đôi môi người sống.
Chị em tôi học hành giữa những biến động của thời thế, hoang mang, ngờ vực, mất mát cứ theo nhau diễn biến từng ngày, từng giờ. Sợ nhất là những tối thức khuya học bài, nghe ngóng một âm thanh quái đản vút lên ngang bầu trời, cuống quýt chui vào chiếc hầm ngột ngạt bằng bao cát. Lắm khi chỉ kịp chui có cái đầu và nửa phần trên ở trong hầm, như để chạy trốn âm thanh dữ dội của ma quỷ. Giá như đêm ấy quả đạn cướp đi nửa phần người, thì cần gì đến một chiếc quan tài đủ thước tấc.
Những khi hai chị em ngồi bên nhau, tôi lại nhớ đến những buổi tối ngày thơ ấu, khi mẹ vắng nhà chỉ có hai đứa bé thơ Cuộc đời chị em tôi còn trải qua một quãng ngày dài vật lộn với cơm ăn áo mặc, với đủ thứ nghi kỵ tư tưởng sau ngày chiến tranh chấm dứt. Mỗi đứa mỗi cảnh, người ta không dễ gì rũ nổi định mệnh ra khỏi đời mình, như chị tôi vẫn cam chịu vác cây Thập giá mạ vàng trên vai chị mấy chục năm ròng. Trong khoảnh khắc của đời sống, tôi vẫn nhớ chị tôi, mỗi khi xuân về tôi lại nhớ như in mảnh vườn nho nhỏ trồng hoa thời thơ ấu, nhớ vách tường đất sét quét vôi trắng mà ở đó có những bức tranh gà, tranh lợn nhà quê, rẻ tiền nhưng chất chứa tình đầm ấm của một tuổi thơ dại khờ êm ả.
Những năm ấy chị tôi sống an phận đời một nhà giáo nghèo, hằng ngày có khi chỉ là vài con cá tanh tưởi, được đổ vào đó đủ thứ gia vị để nuốt trôi một bữa cơm, kèm theo những ngọn rau cần nước mọc dưới vũng nước sâm sấp sau nhà. Đứa con gái đầu lòng của chị nhem nhếch như một cô bé lọ lem, ngồi buồn so trong căn bếp tối khi chị quần thảo với bài học chính trị trong trường học, chưa về kịp để lo cơm nước cho con.
Trước khi đi xa, chị em tôi có dịp thức với nhau một đêm dài, bao nhiêu câu chuyện thời thơ ấu được đem ra kể lại, vừa vui vừa buồn, vừa cười mà mắt lại rướm lệ. Khi nhắc đến mùa Xuân xưa, chị em tôi lại nhắc đến những bức tranh Gà tranh Lợn, tôi bảo chị đừng bao giờ làm mất niềm vui cuả trẻ thơ, vì người lớn không thể hiểu và không thể đồng cảm với thế giới của tuổi thơ trong sáng như một trang giấy trắng. Lại nhớ đến mảnh vườn hoa nho nhỏ thời thơ ấu, có bao nhiêu thứ hoa tầm thường đã nở hoa trong tuổi thơ của chị em tôi, theo năm tháng cuộc đời đã trở thành những đóa hoa tư tưởng trong tâm hồn. Sau này khi lớn khôn, tôi có dịp trải dài trong những bài văn, bài luận trên ghế nhà trường, và đã thành câu chuyện dông dài làm kỷ niệm cho một đời khó quên.
Nguyên Nhung
(Đặc San Lâm Viên)