Tư Liệu: Đặc Tả Đêm Tân Hôn Của Vua Quang Trung |
Tác Giả: Thanh Kim Pham | |||||
Chúa Nhật, 22 Tháng 5 Năm 2011 20:13 | |||||
Bông hoa kiều diễm trên cành bị oanh khùng giày vò ... Con oanh khùng không hề giữ gìn bông hoa kiều diễm
TƯ LIỆU ĐẶC BIỆT: ĐẶC TẢ ĐÊM TÂN HÔN
Thưa chư vị, tôi cũng đã từng nhiều năm ngụp lặn trong kho sách Hán Nôm, cũng bận tâm tra cứu các thư tịch cổ về các chuyện "nguyệt hoa hoa nguyệt" đã nhiều phen, song chưa bao giờ có được may mắn như Tam Uyên Trần Quang Đức ở Nhã Nam. Trưa hôm qua, được Chuyết Chuyết Trần Trọng Dương phô rằng có cái này hay lắm, bèn đứng lại ở sảnh Hàn Lâm viện để truy vấn. Chuyết Chuyết kể câu chuyện – mà chư vị sẽ xem dưới đây. Tôi choáng quá! Lúc ấy, trước mặt không có thư tịch, nên Chuyết Chuyết phải dùng cả đôi tay và cả toàn thân để mô tả những điều mà chàng định tả. Tôi càng choáng hơn! Sáng nay, tại Thư khố Hán Nôm viện, bọn tôi gồm: Tam Uyển Trần Quang Đức, Chuyết Chuyết Trần Trọng Dương, U Cốc khách Tô Lan cùng nhau mở 3 văn bản chữ Nho để đối chiếu và xác minh xem Tam Uyển có vì vui chuyện mà tự thêu thùa thêm chữ nào không. Quả thực là đúng như bài của Tam Uyển, không hề có sai nhầm gì. Kíp khi ấy, Kim Anh nữ sĩ cũng có mặt, bèn được bọn tôi mời vào làm chứng! Đêm tân hôn của Hoàng đế Quang Trung 33 tuổi, còn Ngọc Hân công chúa vừa 16 tuổi. Trời đất! Trai anh hùng gặp gái thuyền quyên! Vậy đã đủ chứng, mời chư vị thưởng thức áng văn chương “vô tiền khoáng hậu” này. Xin đa tạ Tam Uyển Trần Quang Đức đã ưng cho Nguyễn Xuân Diện-blog đưa về hầu chư vị bốn phương. Xin đa tạ Chuyết Chuyết Trần Trọng Dương đã có bài dịch ra thơ ngay trong trưa nay để kíp hầu chư vị. Dưới đây là nguyên văn chép từ Trần Quang Đức-Blog: Việt Nam đệ nhất dâm thi Tây Sơn hành Tam Uyển Trần Quang Đức Bữa trước trong lúc dư nhàn, mỗ có tìm đọc cuốn Tản Ông di cảo (散翁遺稿mang ký hiệu A.2157) của danh sĩ thời Lê là Trần Danh Án. Đọc đến bài Tây Sơn hành thì quả thật hãi hùng chi thậm. Ông này là tôi trung của nhà Lê, kiên quyết bất hợp tác với triều Tây Sơn, thủy chung coi Tây Sơn là giặc mọi, thậm chí tỏ thái độ thù hằn và phất uất khi vua Lê gả công chúa Ngọc Hân cho Quang Trung Nguyễn Huệ. Nay đọc Tây Sơn hành mới càng thấy rõ điều đó. Có điều, từ ý tứ đến ngôn từ trong bài thơ này đều hết sức dâm bôn xằng bậy, càng ngẫm càng thẹn cho kẻ mũ cao áo dài. Xét tự cổ chí kim, văn chương nước nhà chưa có áng dâm thi nào đặng so sánh được. Nay xin tạm phiên âm dịch nghĩa ra đây, rồi sau xin các bậc thiện Nôm chi quân tử cùng diễn ra thơ quốc âm vậy. (Bài thơ này còn được chép trong cuốn Thù thế danh thư 酬世名書 ký hiệu VHv.2239 và cuốn Danh nhân văn tập 名人文集 ký hiệu VHv.2432) 西山行 時阮整引西山阮惠兵來京城,景興皇帝以玉欣公主下嫁阮惠,故有此作. 海宇承平二百年,深宮春色鎖嬋娟,嫣紅錦褥人眼獨 淺翠花裀蝶夢纏,不是神仙無對偶,可堪芳景忽流連 紗窗寂寞梅酣雪,邃篽離披柳困煙,花事闌珊春已矣 殘英落絮總堪憐,鼕鼕何處城邊鼓,羯塵漫塞長安路 亟夏方旋振葉風,深春忽點催花雨,鬚眉無膽控危城 釵扇將身抵驕虜,天王姊婦上公妃,不比尋常花巷主 尊榮貴寵對天潢,奠聘奩儀優特數,雲水騶從翠綺羅 風流儐相紛紳冑,扇夫轎子儘非常,都人見者呼為父 人羡新郎如一口,妾見新郎墜雙手,衣裳熳爛語侏离 骨相崚嶒皮皺古,頂上高堆張角巾,腿間不著韓信褲 其中一物望巍然,直與四肢峙為五,靜似高僧兀坐忘 動如弁子歌身舞,不言不笑不溫存,大吼一聲烈如虎 千鈞飛蹲據酥胸,怒裂羅裙披雪股,此物誰知解刺人 頡頏插入溫柔戶,嬌花枝上狂鶯揉,狂鶯不為嬌花護 花膜重重裂繒聲,鉛爐片片飛煙縷,牙咬肉顫汗如油 亂搗胡抽做不住,須臾裙帶落新紅,暗點春籌翻幾度 妾身兩孔似連環,瞬息通成一大圈,捲襦點閱忽驚訝 頏摩不值半文錢,黑暗既非前度白,縈紆又改舊時圓 呼鬟拿甕尿一尿,尿水之聲如飛泉,飛泉瀲灧去不返 陽風打落桃花片,桃花嬌怯不勝風,風斂花魂猶覺倦 盈盈柳骨瘦三分,褶褶湘羅寬一半,底事雖然不殺人 暮雨朝雲安熟爛,自從奇苦得奇歡,歡後卻忘舊苦艱 不患漁翁揮棹澀,溶溶桃浪漲平灘,左掬右摸探花髓 鶯不停梭蹀不攔,玉癢香搔失害羞,上摟下扭圓團團 風情蕩漾花心急,恐放東君頃刻間,蠻人老實多高興 不會輕挑只會鑽,浮世青雲如過客,一生幾度托春眠 衾裯樂處無夷夏,痴徇空名誤玉顔,不見錦機脂粉隊 西兵去後幾人還,誰將此為語姊妹,嫁郎及早嫁西山 Phiên âm TÂY SƠN HÀNH Thời, Nguyễn Chỉnh dẫn Tây Sơn Nguyễn Huệ binh lai Kinh thành, Cảnh Hưng hoàng đế dĩ Ngọc Hân công chúa hạ giá Nguyễn Huệ, cố hữu thử tác. Hải vũ thừa bình nhị bách niên, Thâm cung xuân sắc tỏa thuyền quyên Yên hồng cẩm nhục nhân nhãn độc, Thiển thúy hoa nhân điệp mộng triền Bất thị thần tiên vô đối ngẫu, Khả kham phương cảnh hốt lưu liên Sa song tịch mịch mai hàm tuyết, Thúy ngự ly phi liễu khốn yên Hoa sự lan san xuân dĩ hĩ, Tàn anh lạc nhứ tổng kham liên Đông đông hà xứ thành biên cổ, Yết trần mạn tắc Trường An lộ Cức hạ phương toàn chấn diệp phong, Thâm xuân hốt điểm thôi hoa vũ Tu my vô đảm khống nguy thành, Thoa phiến tương thân để kiêu lỗ Thiên vương tỉ phụ thượng công phi, Bất tỉ tầm thường hoa lộng chủ Tôn vinh quý sủng đối thiên hoàng, Điện sính liêm nghi ưu đặc số Vân thủy sô tùng thúy ỷ la, Phong lưu tấn tướng phân thân trụ Phiến phu kiệu tử tận phi thường, Đô nhân kiến giả hô vi phụ Nhân tiện tân lang như nhất khẩu, Thiếp kiến tân lãng trụy song thủ Y thường mạn lạn ngữ thù ly, Cốt tướng lăng tằng bì trứu cổ Đính thượng cao đôi Trương Giác cân, Thoái gian bất trước Hàn Tín khố Kỳ trung nhất vật vọng nguy nhiên, Trực dữ tứ chi trì vi ngũ Tĩnh tự cao tăng ngột tọa vong, Động như biền tử ca thân vũ Bất ngôn bất tiếu bất ôn tồn, Đại hống nhất thanh liệt như hổ Thiên quân phi tồn cứ tô hung, Nộ liệt la quần phi tuyết cổ Thử vật thùy tri giải thích nhân, Hiệt hàng sáp nhập ôn nhu hộ Kiều hoa chi thượng cuồng oanh nhu, Cuồng oanh bất vi kiều hoa hộ Hoa mạc trùng trùng liệt tăng thanh, Diên lô phiến phiến phi yên lữ Nha giảo nhục chiên hãn như du, Loạn đảo hồ trừu tố bất trụ Tu du quần đới lạc tân hồng, Ám điểm xuân trù phiên kỉ độ Thiếp thân lưỡng khổng tự liên hoàn, Thuấn tức thông thành nhất đại khuyên Quyển nhu điểm duyệt hốt kinh ngạc, Hàng ma bất trị bán văn tiền Hắc ám ký phi tiền độ bạch, Oanh vu hựu cải cựu thời viên Hô hoàn nã úng niệu nhất niệu, Niệu thủy chi thanh như phi tuyền Phi tuyền liễm diễm khứ bất phản, Dương phong đả lạc đào hoa phiến Đào hoa kiều khiếp bất thắng phong, Phong liễm hoa hồn do giác quyện Doanh doanh liễu cốt sấu tam phân, Triệp triệp tương la khoan nhất bán Để sự tuy nhiên bất sát nhân, Mộ vũ triều vân an thục lạn Tự tòng kì khổ đắc kì hoan, Hoan hậu khước vong cựu khổ gian Bất hoạn ngư ông huy điệu sáp, Dung dung đào lãng trướng bình than Tả cúc hữu mô thám hoa tủy, Oanh bất đình thoa điệp bất lan Ngọc dạng hương tao thất hại tu, Thượng lâu hạ nữu viên đoàn đoàn Phong tình đãng dạng hoa tâm cấp, Khủng phóng đông quân khoảnh khắc gian Man nhân lão thực đa cao hứng, Bất hội khinh thiểu chỉ hội toàn Phù thế thanh vân như quá khách, Nhất sinh kỉ độ thác xuân miên Khâm trù lạc xứ vô di hạ, Si tuẫn không danh ngộ ngọc nhan Bất kiến cẩm cơ chi phấn đội, Tây binh khứ hậu kỷ nhân hoàn Thùy tương thử vị ngữ tỉ muội, Giá lang cập tảo giá Tây Sơn. Dịch nghĩa: TÂY SƠN HÀNH Bấy giờ, Nguyễn Hữu Chỉnh dẫn quân Tây Sơn Nguyễn Huệ tới Kinh thành, Hoàng đế Cảnh Hưng gả công chúa Ngọc Hân cho Nguyễn Huệ, cho nên có bài thơ này. Bờ cõi thanh bình đã hai trăm năm Ở nơi thâm cung xuân sắc, người đẹp bị khóa chặt Cô đơn nằm trên nệm gấm hồng tươi Say giấc mộng bướm dưới lớp áo hoa biêng biếc Không phải là thần tiên không có người sánh đôi Mà cám cảnh thơ ngây bỗng vương lòng lưu luyến Song the hiu quạnh, bông mai đượm tuyết Vườn uyển sâu thẳm, liễu ám khói sương Mùa hoa đi qua, xuân cũng đã hết Cánh hoa tàn, tơ mành buông, thật là đáng thương Tùng Tùng! Đâu đó vang lên tiếng trống ven thành Lũ rợ Kiệt đến, bụi mù khắp Tràng An Chưa cuối hè mà đã có gió lay lá Đương xuân chín mà bỗng lác đác giọt mưa bứt hoa. Đấng mày râu không có gan giữ được cung thành Để bực quần thoa phải gán thân cho giặc mạnh Con gái Thiên vương phải làm phi cho Thượng Công Nào phải bậc chúa hoa tầm thường. Để tỏ lòng tôn vinh đối với hoàng tộc Sính lễ cùng nghi thức hết sức đặc biệt Ngựa xe như mây nước, tùy tòng mặc toàn gấm vóc Đám phù rể phong lưu, áo mũ xênh xang. Bọn phu quạt, phu khiêng kiệu đều lạ lùng Người kinh đô thấy đều gọi là ‘cha’ Ai cũng hâm mộ chú rể Còn cô dâu trông thấy chàng rể thì buông đôi tay. Quần áo thì sặc sỡ diêm dúa, giọng nói thì trọ trẹ Dáng dấp ngang tàng, da dẻ nhăn nhúm Trên đầu chất cao cái khăn của Trương Giác Giữa chân không mặc cái quần của Hàn Tín Ở bên trong, một vật trông rất nguy nga Cùng với tứ chi, sừng sững thành năm ngọn Lúc tĩnh lặng, giống như cao tăng nhập tọa Lúc động đậy, tựa như võ biền vừa hát vừa múa Chẳng nói chẳng cười chẳng từ tốn Gầm lớn một tiếng, mãnh liệt như hổ Nghìn cân sà xuống, chồm hỗm chiếm bộ ngực như bơ Tức tối xé rách chiếc váy là đang che cặp đùi tựa tuyết Vật này ai cũng biết là có thể đâm người Ngúc ngoắc rồi chọc vào cánh cửa êm ấm Bông hoa kiều diễm trên cành bị oanh khùng giày vò Con oanh khùng không hề giữ gìn bông hoa kiều diễm Lớp lớp màng hoa, tiếng xé vải Mảnh mảnh lò chì bốc lên những ngọn khói Răng nghiến, xác thịt rung, mồ hôi như dầu Nện bừa, rút quấy, làm không dừng Phút chốc, giọt hồng trinh rớt trên dải váy Âm thầm mấy độ xuân qua Trên thân thiếp hai lỗ tựa vòng khâu Trong nháy mắt thông thống thành một hốc lớn Vén áo lót kiểm tra bỗng kinh ngạc Bị sờ bóp không đáng giá nửa xu Thâm tím, không còn màu trắng xưa kia Méo mó, khác rồi khối tròn thưở trước Gọi a hoàn bưng chậu nước đi tiểu một cái Tiếng nước tiểu như dòng thác tuôn Dòng thác sóng sánh một đi không trở lại Ngọn gió thổi rụng cánh hoa đào Hoa đào kiều diễm, khiếp sợ, không chịu nổi gió Gió ngớt, hồn hoa còn thấy mệt lả Vóc liễu gày đi ba phần Áo lụa gấp rộng một nửa Việc này tuy không đến nỗi chết người Nhưng cứ sớm mây chiều mưa sao lại không nát bét chứ Từ khi chịu cái khổ lạ lùng lại được cái sướng lạ lùng Sau khi sướng lại quên hết nỗi gian khổ ngày xưa Chẳng lo ông chài khua chèo bị rít Sóng đào bát ngát dâng ngập bờ cát phẳng Vốc bên trái, sờ bên phải, thăm dò nhị hoa Con oanh chẳng ngừng luồn, con bướm chẳng ngăn cản Ngọc ngứa, hương gãi, không còn thẹn thùng Trên ôm, dưới siết, cuộn lại tròn vo Cuộc phong tình tràn ngập, lòng hoa bướm háo hức Chỉ sợ rời ‘chúa hoa’ trong khoảnh khắc. Kẻ man di thật thà, rất nhiều khi lên cơn hứng Chỉ biết đâm dùi, chứ không biết nhẹ nhàng ve vuốt Cảnh đời mây nổi, tựa như khách qua đường Cả đời được mấy lúc hưởng trọn giấc xuân Thú chăn gối không phân biệt người Kinh, người rợ Si ngây chuốc lấy danh hão, người ngọc lỡ lầm Không thấy đám phấn son ở Cẩm Cơ sao Sau khi quân Tây Sơn đi, có mấy thằng quay lại? Ai nấy hãy đem việc này nói rõ với chị em: Lấy chồng thì cứ sớm lấy bọn Tây Sơn ấy. Nguồn: Trần Quang Đức-Blog Dưới đây là bản dịch thơ của Chuyết Chuyết Trần Trọng Dương: Cõi thanh bình hai trăm năm lẻ Chốn thâm cung khóa trẻ đương tơ Gấm tươi phô nét hững hờ Áo hoa biêng biếc, bơ thờ[1] giấc xuân Khách thần tiên chưa lần sánh mộng Lòng thơ ngây chợt động tơ vương Song mai tuyết đọng chán chường Vườn hoa thăm thẳm khói sương liễu bồ Hoa đã rụng xuân hồ cũng hết Xác còn buông mấy nét tơ sương Thoắt thôi trống động biên cương Bao nhiêu rợ mọi ngập đường Tràng An Buổi cuối mùa gió man lay lá Đương xuân hồng mưa rã nhị hoa Mày râu trốn hết đâu mà? Để cho má phấn phải ra gán mình Thân công chúa thình lình thiếp giặc Thân ấy đâu phải bậc tầm thường Hoàng cung quốc sắc thiên hương Thì thôi sắm lễ tiện đường rước đi Xe như nước ngựa phi giăng gấm Phù rể trông cũng thậm xênh xang Lạ lùng tôi tớ khiêng sang Lê dân Kẻ Chợ bàng hoàng xuýt xoa Hâm mộ ngắm chàng ta rể quý Nàng Ngọc Hân gạt lệ xuôi tay Người đâu trọ trẹ thế này Da thời nhăn nhúm, dáng rày[2] ngông nghênh Khăn với áo xông xênh diêm dúa Giữa hai chân không khố lão Hàn Bên trong một vật hiên ngang Ngũ chi sừng sững như đang thượng tòa Khi lúc lắc tựa là nhảy múa Chẳng nói năng sấn sổ xông ra Cọp gầm hùng hổ chu choa Nghìn cân sà xuống một tòa thiên nhiên Xé toạc váy giở miền ngà ngọc Vật này ôi đã xọc thân hoa Xăm xoi ngúc ngoắc vào ra Oanh khùng khục tiếng, hoa dà dà son Ôi giày xéo hoa don vật vã Nhụy non tơ rách tã còn đâu Hơi hùm bốc khói trên đầu Thịt rung răng nghiến như dầu bôi thân Chọc bừa đâm quấy tần vần Giọt hồng cứ giỏ mấy lần nếp voan Âm thầm bấy, mầu xoan vuột mất Nhụy thuở nào e ấp xinh xinh Thoắt thôi hoang hoác thân[3] mình Nhìn xem xiêm áo thất kinh rụng rời Thân vàng ngọc đáng thời nửa cắc Màu trinh nguyên đã mất vẻ xưa Ngực non méo mó dật dờ Buồn cơn đổ xuống một bờ thác tuôn Thác đã tuôn cũng khôn níu lại Cánh hoa đào gió tãi nào vun E rằng gió giật chăng dừng Hồn hoa mệt bã vô chừng bấy hoa Thân liễu yếu ngót ba phần đủ Xiêm y thay, thít chửa vừa thân Mây mưa đã giãi phong trần Tuy chăng mất mạng, cũng dần nát tan Càng đau lạ lại càng sướng lạ Sướng này thôi cũng hả đau kia Chèo khua chẳng ngại gẫy chìa Sóng đào bát ngát dâng kìa bãi xa Đôi trái cấm xuýt xoa kia nọ Oanh chăng ngừng, bướm tỏ nguồn yêu Ngọc ngà ngứa ngáy hương phiêu Trên ôm dưới siết còn đâu thẹn thùng Cuộc phong tình bướm hoa háo hức Chẳng nỡ rời một lúc một giây Vũ phu hứng động dâng đầy Vuốt ve chẳng đoái, cuốc cầy quen chân Cảnh mây nổi một thân làm khách Khách qua đường chớ trách mộng xuân Gối chăn đâu cũng xoay vần Danh suông để hão, trong ngần vấy nhơ Đám phấn son Cẩm Cơ chửa đủ Gã Tây Sơn liệu có quay về Việc này nói tỏ cho nghe : Lấy chồng cứ lấy chẳng nề quân Tây ! [1] Bơ thờ (từ cổ): uể oải, lười. [2] Rày: nay [3] Theo nguyên bản nên dịch là “cửa”, nhưng nay đổi chữ cho nó đỡ dữ. * Phụ chép: Tiểu sử của Trần Danh Án – tác giả của bài Tây Sơn hành: Trần Danh Án (1755 – 1794), người xã Bảo Triện huyện Gia Định – nay là thôn Bảo Triện, xã Nhân Thắng, huyện Gia Bình, tỉnh Bắc Ninh. Cháu Trần Phụ Dực, con Trần Danh Lâm. Thi Hương đỗ Giải nguyên. Thi Hội đỗ Đệ nhị giáp Tiến sĩ xuất thân (Hoàng giáp) khoa Đinh Mùi niên hiệu Chiêu Thống 1 (1787) đời Lê Mẫn Đế. Làm quan đời Lê Chiêu Thống đến chức Viên ngoại lang, hành Chiếu khám. Khi Lê Chiêu Thống chạy lên vùng Bắc Giang, ông đang giữ chức Nội hàn, đi theo làm tùy tùng. Chiêu Thống chạy sang nhà Thanh, ông ở lại quê nhàm cùng Trần Quang Chân, Dương Đình Tuấn dấy binh chống triều Tây Sơn. Khi nghe tin Chiêu Thống chết ở Trung Quốc, ông gào khóc thương tiếc rồi mất. Nguồn: Các nhà khoa bảng Việt Nam 1075-1919. Ngô Đức Thọ chủ biên. Nxb. Văn học, Hà Nội, 2006. trang 645.
|