Tôi không nhớ đã thấy người nhạc sĩ già ấy từ lúc nào, hình như cũng lâu lắm rồi, dễ chừng đã ba, bốn năm nay...
Tôi không nhớ đã thấy người nhạc sĩ già ấy từ lúc nào, hình như cũng lâu lắm rồi, dễ chừng đã ba, bốn năm nay. Tôi đoán tuổi ông có lẽ khoảng quá 70 một chút. Từ lần đầu thấy ông đến bây giờ, lúc nào ông cũng ngồi duy nhất một chỗ, trước hàng hiên của một tiệm Việt Nam , như một loại tiệm fast food của Mỹ. Bên mình ông có cây đàn mandolin và cây harmonica. Ông đàn những bản nhạc tiền chiến Việt Nam, có khi ông thổi những bài nhạc ngoại quốc nổi tiếng cũng rất xưa rồi. Ông cứ lặng lẽ đàn hay lặng lẽ thồi, chưa bao giờ tôi nghe ông nói một tiếng nào, nên tôi không đoán được ông là người miền nào của Việt Nam. Trước mặt ông có để một cái nón lật bề lõm lên trên , mọi người đi qua đi lại ai có lòng thì bỏ tiền vào đấy, tôi cũng bắt chước mọi người bỏ tiền vào nón mỗi lần đi ngang qua chỗ ông ngồi, lần nào tôi cũng thấy ông gật đầu tỏ vẻ cám ơn trong khi tay vẫn tiếp tục đàn hay miệng vẫn tiếp tục thổi harmonica nhưng không nói một tiếng nào. Thường tôi chỉ ghé qua khu chợ Việt Nam nầy vào buổi sáng nên không biết ông nhạc sĩ ngồi đấy đến mấy giờ.Có lúc tôi cũng thắc mắc là ông không có gia đình con cháu gì sao mà phải mưu sinh bằng cách bán cung đàn tiếng nhạc của mình ở lề đường , ở hàng hiên của các tiệm quán bình dân mà lẽ ra ông phải được trình diễn trên sân khấu mới đúng cương vị của một người nhạc sĩ .
………………………………………………………….
Hồi đó, lúc còn ở Việt Nam, không phải chỉ riêng tôi mà hầu hết người Việt Nam nào cũng nghĩ về nước Mỹ như là một thiên đường ở thế gian, hiểu theo nghĩa vật chất thì ở đấy không thiếu một thứ gì cho cuộc sống của con người. Lúc chuẩn bị sang Mỹ tôi vẫn hoài ôm ấp những mơ ước sẽ thực hiện sau khi đặt chân tới Mỹ. Bây giờ sau một thời gian dài cư trú, tôi đã thấy rõ rằng ở cái nước văn minh tiến bộ nhất nhân loại nầy cũng đầy dẫy những tệ nạn xã hội không khác gì ở Việt Nam. Trên những con đường tôi đã đi qua, tôi vẫn thấy người homless đủ các sắc dân đứng dọc đường mong được sự giúp đỡ vật chất của người qua đường. Có nhiều lần lúc mùa hè , mỗi lần đi ngang qua con đường quen thuộc về nhà , buổi chiều tôi hay thấy một gia đình người Mỹ, hai vợ chồng đều còn rất trẻ, người chồng còn đeo kính trắng mặt có vẻ hiền hậu trí thức; hai đứa con gái nhỏ: bé lớn chừng 3, 4 tuổi đứng khép nép bên mẹ, tay ôm con búp bê nhựa; còn đứa nhỏ chắc chưa được 1 tuổi, ngồi trong chiếc xe đẩy. Người chồng mang một cái balô sau lưng, người vợ xách một cái túi lớn chắc đựng quần áo vật dụng gì trong đó. Người chồng đứng sát lề xe chạy gần ngã tư đèn xanh đỏ, lúc xe ngừng đèn thỉnh thoảng tôi thấy có bàn tay đưa ra chắc cho chút tiền nên tôi thấy người chồng chạy tới gần lấy. Có vài lần tôi cũng muốn làm hành động cho đó, nhưng rồi tôi lại ngại, tôi vẫn còn mang mặc cảm của người Á châu thiểu số đã chịu ơn nước Mỹ cưu mang, thì dám đâu “bố thí” lại cho chính người Mỹ.
Một vài lần nữa, ở một khu chợ Việt Nam tôi lại thấy một thanh niên Mỹ trắng, tướng người cao lớn, đeo kính trắng. Tôi không biết người nầy có bị tàn tật gì không mà tôi chưa lần nào thấy anh đứng thẳng người, chỉ thấy lúc thì anh quỳ gối túi xách nhỏ trước mặt, lúc thì ngồi bẹp dưới đất, tôi chưa thấy anh nói một tiếng nào, chỉ lặng lẽ nhìn người đi qua lại, nếu có ai giúp đỡ thì anh chỉ gật đầu tỏ vẻ cám ơn. Đó là một vài người da trắng mà tôi đã thấy trong cảnh homless, còn thì người da đen, người Mễ ngay cả người Việt Nam cũng có, ai bảo ở xứ Mỹ giàu có văn minh tiến bộ mà không có người đi khất thực !!
Người ở khu Bolsa gọi bà là bà Tư bán báo, bà bán các tờ báo tiếng Việt xuất bản hàng ngày hay hàng tuần, không biết làm sao bà lại sở hữu được chiếc xe chất hàng của các bà nội trợ mỗi khi vào chợ mua hàng đẩy ra chất lên xe.Lần nào có dịp vào khu chợ nầy, nếu là buổi sáng, tôi hay ghé mua báo của bà Tư, dù trong chợ hay tiệm liquor gần đó có bán báo Việt Nam, có lẽ vì tôi, cũng như khách qua lại muốn mua ủng hộ khi thấy một bà già đáng lẽ ở tuổi nầy đã sống an vui đoàn tụ với con cháu, chớ có lý đâu bà phải cực khổ hàng ngày đứng còng lưng bán từng tờ báo kiếm sống qua ngày. Có những buổi sáng đi làm sớm tôi ghé ngang chỗ bà để xe bán báo, định mua mấy tờ báo Việt mới đầu ngày, vì ông xã tôi có thói quen chiều đi làm về hay đọc báo trong khi chờ bữa cơm tối. Tôi ngừng xe ngó quanh quất không thấy bà Tư bán báo đâu, mà chợ và tiệm liquor còn sớm quá chưa mở cửa, tôi định nổ máy chạy đi thì nghe có tiếng gọi “cô ơi cô..”, tôi đảo mắt nhìn mãi mới thấy bà Tư đang ngồi khuất giữa hai chiếc xe đậu ngoài parking, tay bà vẫy tôi lia lịa. Tôi đến gần hỏi lý do thì bà cho biết bị bảo vệ của khu phố thương mại không cho bán, chắc do sự khiếu nại của tiệm liquor bị mất khách mua báo. Mấy ngày gần Tết bà Tư cũng có bán báo Xuân hay lịch năm mới, tôi cũng có mua để ủng hộ cho bà. Có vài lần bận tôi không ghé mua báo, hôm sau gặp bà tôi hỏi mua lại báo ngày hôm trước, chỉ khi nào bà hết báo cũ thì thôi, chứ nếu còn bao giờ bà cũng biếu cho tôi không lấy tiền dù tôi cố trả …
Bẵng đi một thời gian dài tôi không đi ngang khu Bolsa vì không tiện đường đi làm, tôi chỉ ghé mua báo ở chỗ nào có bán trên đường đi, và tôi cũng quên mất bà Tư bán báo. Cho tới một ngày, chắc cũng hơn một năm rồi, tôi đọc báo thấy hình bà Tư và một bài dài mấy kỳ báo nói về bà do một nữ phóng viên của tờ báo viết. Càng đọc tôi càng thấy xúc động về cuộc đời của bà Tư, theo bài viết thì bà chỉ có hai mẹ con ở Mỹ , người con trai cũng trên ba mươi, chưa có gia đình sống với bà suốt bao nhiêu năm, gia cảnh hai mẹ con thiếu thốn chật vật ; nhưng có một điều không ai có thể ngờ được là tiền bà bán báo hàng ngày, bà dành dụm lâu lâu gom lại gửi về Việt Nam làm từ thiện, giúp trẻ em nghèo , người già neo đơn khốn khổ . Tác giả bài viết kể cô đã có dịp tìm gặp chính người con trai của bà mới biết mọi chuyện về bà đưa lên báo. Cuối cùng bà mang bệnh ung thư gan quá nặng nên đã từ trần. Đám tang bà thật nghèo nàn thiếu thốn đến nỗi không có được một cái quan tài rẻ nhất để quàn, lòng hảo tâm của con người cũng có giới hạn, nên lúc đem thiêu, thân xác bà đựợc cho vào một áo quan bẳng giấy carton rẽ tiền nhất, sau đó người con trai đem gửi cốt của mẹ ở một ngôi chùa nhỏ , cô phóng viên tường thuật lại sau khi mọi việc đã xong xuôi. Lần đó tôi đã xúc động khóc khi đọc bài báo, một kiếp người sao khốn khổ quá! Bây giờ mỗi lần ghé khu Bolsa mua báo tôi vẫn thấy bồi hồi nhớ hình ảnh bà Tư bán báo đứng còng lưng bên xe báo của bà mời khách qua lại !...
. . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . .
Gia đình tôi ba người có thói quen cùng nhau đi bộ mấy vòng quanh khu nhà tôi ở mỗi buổi chiều mùa hè sau bữa cơm, rất nhiều lần đi tới góc đường dẫn vào khu nhà dưỡng lão gần đấy, tôi hay gặp một bà cụ già dáng đi lom khom chống gậy chậm chạp bước. Chiều nào cũng gặp nên tôi lân la đến gần đi chung với cụ để làm quen. Cụ cho biết cụ đã 90 tuổi, ở một mình trong nhà dưỡng lão nói trên, con cái bận đi làm mỗi ngày, nhà không có ai giúp cụ, nên con gửi cụ vào viện, cuối tuần mới đến thăm hay đón cụ về nhà chơi, rồi chiều chủ nhật lại đưa cụ vào. Cụ nói chuyện với tôi xem đầu óc còn minh mẫn lắm, cụ kể cụ ông mất lâu rồi, bà đã ở vậy nuôi các con ăn học thành danh, rồi cụ dựng vợ gã chồng cho các con đàng hoàng. Cụ nói chuyện không tỏ vẻ gì trách móc con cái đã đưa cụ vào viện dưỡng lão, cụ có vẻ rất cảm thông với nỗi khó khăn khó xử của con vì không lo được cho mẹ lúc về già. Có lần cụ còn dắt tôi về phòng của cụ ở khu dưỡng lão. Thấy phòng cụ chỉ có một giường, tôi hỏi bộ cụ chỉ ở một mình không buồn sao ? Cụ nói cụ quen một mình rồi không sợ gì hết, có chuyện gì bấm chuông gọi nhân viên trực. Cụ nói các con cụ cũng muốn làm vui lòng mẹ nên mỗi đứa phụ thêm tiền trả chi phí để giữ phòng một mình cho mẹ, Tôi đã có vài lần đến thăm và nói chuyện với cụ, bà rất vui mỗi lần thấy tôi đến, bà kể rất nhiều chuyện về cuộc đời bà cho tôi nghe. Rồi mùa đông đến buổi tối trời lạnh sớm nên tôi không đi bộ nữa , có lẽ cụ bà cũng được lưu ý người già không nên ra ngoài khi trời lạnh, nên tôi không gặp cụ nữa. Một thời gian sau tôi có ghé qua viện định thăm cụ thì mọi người nói cụ không còn ở đây lâu rồi, không biết con cái đưa cụ về nhà hay cụ đã trăm tuổi già dứt được gánh nợ trần ai rồi ! !...
Có lẽ tuổi tôi hợp với những người lớn tuổi hay sao, mà mọi sinh hoạt của tôi đều có liên quan đến các ông bà lớn tuổi. Từ lâu tôi có tham gia vào Hội của những người mắc bệnh Alzheimer’s, chi nhánh Việt Nam. Hội tổ chức sinh hoạt mỗi tháng vào buổi sáng ngày thứ năm của tuần lễ thứ nhì trong tháng.Hội viên toàn là những ông bà lớn tuổi có thân nhân , hoặc vợ hoặc chồng mắc bệnh, chỉ có tôi duy nhất là đến sinh hoạt có một mình, vậy mà tôi thích như thế. Những câu chuyện được nghe kể về các người bệnh, có khi ngây ngô đến tức cười, nhưng cũng có lúc cảm động đền chảy nước mắt. Một bác gái tuổi đã bước qua con số 7, đã nuôi chồng bệnh từ 12 năm rồi. Bác nói phải chăm chút cho chồng như một đứa trẻ, lo từng miếng ăn giấc ngủ, rồi chơi đùa với chồng như trẻ lên ba. Bác kể có lúc bác đùa gọi ông là “Hoàng đế” và xưng là “HoàngHậu” với ông, thế là mặt mày ông vui vẻ hẳn lên, lấy làm sung sướng lắm. Có lúc thấy vợ cực khổ vệ sinh cho ông, ông cảm động vuốt má vợ nói “tội nghiệp hoàng hậu quá”, làm bác gái cảm động rơi nước mắt. Có trường hợp một chị tuổi mới ngoài năm mươi, nhưng đã nuôi chồng bệnh Alzheimer’s từ hơn 7 năm rồi, chị kể hoàn cảnh của mình mà mắt chị đỏ hoe khiến mọi người ngồi nghe đầy cảm kích. Lại có một cô dáng người cũng thon thả, khuôn mặt đẹp đẽ thanh tú, đến chỉ có một mình, cô nói đi theo hai vợ chồng bạn, tiếng Huế cô nói nghe rất êm tai. Người bạn nói nhỏ với mọi người là cô không có gia đình, hình như đầu óc của cô cũng có vấn đề bắt đầu của bệnh lẫn, nên bà bạn muốn rủ cô theo cùng sinh hoạt mong ngăn ngừa căn bệnh mới phát hiện trong cô. Người bạn cho biết cô rất thích hát và hát hay lắm, thế là cả phòng nhao lên yêu cầu cô hát, cô không ngần ngại hát ngay một bài nhạc tiền chiến; nhưng mới hát nữa chừng cô im bặt nói quên mất rồi, người nghe cũng thông cảm với cô; nhưng rồi ai cũng ngạc nhiên khi cô chợt cất tiếng hát một bài khác, thế đấy triệu chứng không được bình thường về trí óc của một con người. Một ông cụ có thể kể vanh vách mạch lạc nguyên nhân đã gây ra căn bệnh lẫn của cụ, khiến người nghe hoàn toàn không thấy cụ bệnh chút nào; nếu không có bà vợ sau đó đính chính rằng ngay cả bà là vợ cũng không biết tại sao cụ ông lại có thể nghĩ ra được một câu chuyện có đầu đuôi tình tiết hợp lý và kể lại cho người khác nghe một cách thông suốt như vậy; trong khi sự thật là ông bị tai nạn xe trúng đầu, sau khi bình phục thì trí nhớ của ông kém hẳn đi, ông quên nhiều chuyện lắm…
Cô phụ trách Hội thật tốt, tháng nào Cô cũng nghĩ ra một đề tài để trong buổi sinh hoạt nêu lên cho mọi người cùng góp ý, tạo cơ hội cho người bệnh vận động trí nhớ của mình. Ngoài ra Cô còn mang chút quà, một ít món ăn nhẹ nhàng cho các bác cùng ăn uống vui chơi thoải mái với nhau trong vài giờ đồng hồ.Tôi vốn thích những buổi sinh hoạt từ thiện nầy nên mỗi tháng dù bận tôi cũng cố thu xếp thì giờ đi sinh hoạt với Hội, vậy mà tôi đến với Hội cũng được bốn năm rồi, bốn năm với nhiều thay đổi, một bà cụ bệnh lẫn mà gia đình nhờ tôi đến giúp lo cho cụ mỗi ngày, cụ mất cũng gần một năm nay. Hàng tháng tôi vẫn đến sinh hoạt với Hội, tôi vẫn đi một mình, có vài người thắc mắc khi thấy tôi không đi chung với người nhà bệnh, bản thân tôi cũng không bị bệnh, cớ sao tôi lại chịu khó đến với Hội như vậy? Tôi chỉ lắc đầu mỉm cười , chứ tôi biết trả lời sao bây giờ ? ! Mỗi tháng đến tôi gặp thêm vài khuôn mặt mới, nhưng đồng thời lại thấy vắng đi vài người cũ, cuộc đời thật vô thường sắc sắc không không ! !
Mới đây hôm tất niên của Hội, cô phụ trách đã cẩn thận email hay gọi điện thoại nhắc nhở các cụ trước vài ngày. Cô muốn buổi tất niên sẽ đông đủ các gương mặt quen thuộc của Hội. Sự mong đợi của cô đã được hồi đáp, gần ba mươi cụ đã đến hôm đó, buổi họp mặt thật vui và cảm động, hầu hết là các cụ ông là người bệnh; các bà vợ đã chăm chút miếng ăn cho các ông chồng thật chu đáo, phần ẩm thực do các hội viên tự nguyện đóng góp rất đồi dào; có phần văn nghệ cây-nhà-lá-vườn giúp vui ; có chụp ảnh lưu niệm; cuối cùng trước khi chia tay các cụ còn có những món quà nho nhỏ của cô phụ trách gọi là chút quà Tết mang về cho các cụ vui, mọi người lưu luyến chia tay hẹn tháng sau gặp lại, đối với tôi hôm đó là một buổi gặp gỡ nhiều ý nghĩa và đáng ghi nhớ.
Ngày 25 Tết, đối với các gia đình Việt Nam là ngày đi cúng mộ thân nhân đã qua đời. Vào ngày nầy hồi đó lúc còn ở Việt Nam, tôi và em gái mang hoa quả trái cây vào chùa đốt nhang cho ba mẹ tôi và các thân nhân có gửi các hủ cốt đã thiêu trong chùa. Chúng tôi lau chùi các bình đựng tro cốt, cắm bình hoa rồi đốt nhang tưởng nhớ các thân nhân đã qua đời. Khi tôi rời Việt Nam, việc thờ cúng ba mẹ nhờ chị tôi còn ở lại nhà lo lắng dùm. Ngày 30 tết, tôi gọi vế chúc tết khi các gia đình tụ họp bên mâm cơm đón ông bà về ba ngày tết. Còn ở Mỹ , ngày tết Việt Nam, nhất là khu tôi ở, gọi là thủ-đô tị nạn của người Việt , ngày tết cũng nhộn nhịp không thiếu một thứ gì giống như ở Việt Nam, nên người ta mới gọi là khu “ Sài-gòn nhỏ”, cũng chợ hoa, bánh mứt, trái cây, nhang đèn, ngũ quả…, ngoài phố Bolsa cờ vàng ba sọc đỏ phất phới bay trong nắng xuân ấm áp, bao nhiêu năm ly hương, người Việt vẫn không quên tập tục ngày Tết cổ truyền Việt Nam…..
Buổi chiều 30, đi về ngang khu phố Bolsa, trời đã sẩm tối, mọi người qua lại có vẻ vội vã mua sắm để kịp về nhà cúng giao thừa đón năm mới, tôi quẹo một vòng trong parking của khu tiệm Việt Nam, tôi chợt nghe có tiếng harmonica cao vút giữa tiếng ồn ào của phố đông người qua lại. Tôi đậu xe rồi bước vào hàng hiên trước chợ, hình ảnh quen thuộc của ông nhạc sĩ già ngồi như say mê thổi không để ý đến người qua kẻ lại, ông thổi bài “Mùa xuân đầu tiên” của Văn Cao. Tôi nhẹ nhàng cúi người đặt vào chiếc nón trước mặt ông ít đồng rồi bước đi thật khẻ, không dám làm bận tâm người nhạc sĩ đang chăm chú với bài nhạc . Tôi thầm nghĩ không biết bao giờ ông mới trở về nhà khi trời chiều cuối năm đã dần tối , hay là ông không có được một mái ấm trú chân trong đêm nay trước giờ phút giao mùa đến. Tôi lái xe về nhà, lòng vương chút bồi hồi khi nghĩ đến hình ảnh người nhạc sĩ già ngồi cô đơn lặng lẽ đem bán tiếng đàn của mình mong được chút lòng hảo tâm của người qua lại. Tôi bật radio trong xe, thoảng vang lên giọng hát trầm buồn của Minh Hiếu :
“… Tôi đi tìm lại một mùa Xuân,
Mùa Xuân năm đó chưa thấy lại.
Tôi vẫn đi trong chiều Xuân tái,
Tìm để mà tìm như thế thôi.”