Sáng hôm ấy, một buổi sáng cách nay hơn 30 năm, tôi đang chăm chú nhìn vào màn hình máy vi tính bỗng nghe tiếng động sau lưng nên tôi chòi nhẹ chân phải, xoay nửa vòng chiếc ghế ngồi làm việc để quay mặt lại thì thấy Kenny bước vào “văn phòng hộp” (cubicle) của mình. Tôi chưa kịp chào hỏi, Kenny đã lên tiếng:
“Francis, hôm nay tôi cần anh giúp tôi một việc.”
Tên tôi là Phận, đọc trài trại như Francis, tên Thánh bổn mạng của tôi, nên tôi lấy tên này cho dễ giao thiệp với người bản xứ chứ tôi không có đổi trên giấy tờ. Tôi nghĩ rằng khi đặt tên cho con, là bậc cha mẹ ai cũng muốn chất chứa một ý nghĩa, một hoài bão nào đó nên tôi vẫn giữ tên Việt khi nhập quốc tịch Mỹ. Thấy Kenny đến tận văn phòng gặp mình và gương mặt anh ta trông có chút lo lắng, tôi thầm nghĩ, chà, chắc có chuyện gì quan trọng đây.
“Tôi đang chạy thử hệ thống nhận hàng mới của công ty, phải xong vào thứ hai tuần tới… Nhưng… nếu sếp cần việc gì gấp thì có thể gác lại.”
Tôi mỉm cười, trả lời Kenny, nhấn mạnh chữ “sếp” với dụng ý xoa dịu sự căng thẳng, nếu có, và chờ xem phản ứng của anh ta. Kenny hơn tôi chỉ có một tuổi nhưng rất già dặn trong phong cách đối xử với nhân viên. Anh chàng này thuộc loại sếp “giàu tình người” (people-oriented) chứ không “vì công việc” (job-oriented), điều hành nhân viên phòng Ðiện Toán chúng tôi như anh chị em một nhà. Năm nào vợ chồng Kenny và Bonnie cũng tổ chức tiệc Giáng Sinh, mời tất cả nhân viên thuộc cấp đến nhà ăn uống, trò chuyện, vui chơi thoải mái.
“Bonnie làm việc thiện nguyện cho trường Thánh Michael, nơi mấy đứa con của chúng tôi đang theo học. Cô nàng mời một người bạn gốc Ấn hôm nay đến trường nói chuyện với các em học sinh lớp năm về Ấn Ðộ và phong tục xứ ấy. Rủi thay, cô bạn ấy vừa gọi cáo bệnh…”
Kenny nói một mạch, chưa dứt câu tôi đã đoán ra anh ta muốn gì rồi nên hỏi:
“Bonnie nhờ tôi đến nói chuyện với học sinh thay cho chị bạn Ấn Ðộ?”
“Ðúng vậy! Hôm lễ Giáng Sinh, câu chuyện anh kể về xứ Việt Nam, cuộc sống của gia đình cha mẹ anh dưới chế độ cộng sản và chuyến vượt biên tìm tự do của anh nghe thật lôi cuốn và cảm động. Chúng tôi rất cảm phục anh. Vì vậy mà Bonnie vừa gọi điện thoại, nhờ tôi mời anh đến trường giúp giùm”.
“Tôi rất sẵn lòng giúp anh chị trong việc này!” Tôi đứng lên, bắt tay Kenny và nói tiếp, “Buổi nói chuyện khi nào bắt đầu hả Kenny?”
Anh ta siết tay tôi, thật chặt:
“Cám ơn anh. 11 giờ, vì vậy khoảng 10 giờ rưỡi mình rời sở đi đến trường. Xong việc, tôi xin mời anh một buổi cơm trưa nhé. Nhưng… nhưng anh làm ơn rút ngắn câu chuyện lại giùm, độ chừng nửa giờ, thêm 10 phút trả lời các câu hỏi của các em học sinh và… xin anh bỏ qua những chi tiết dính líu đến chính trị vì các em còn nhỏ và đây là một cơ sở tôn giáo.”
Thắm Nguyễn
“Ðược! Ðược! Cám ơn anh. Không sao!”. Tôi mỉm cười, trả lời, thông cảm với Kenny. Tôi nghĩ chúng ta ai cũng biết đa số người Mỹ ở tiểu bang miền cực Bắc này “cấp tiến” (liberal) đến nỗi họ đã bỏ phiếu cho phép học sinh quyền từ chối không đọc Lời Tuyên Thệ Trung Thành với Tổ Quốc (Pledge of Allegiance) tại trường. Vào thời chiến tranh Việt Nam, họ là những người đã nhẹ dạ, ủng hộ đám phản chiến, nguỵ hoà, thân cộng, gián tiếp gây ra biết bao lầm than cho người Việt quốc gia. Nhưng, nói cho cùng, họ là những người đã mở lòng, giúp đỡ mấy chục ngàn người Việt chúng ta định cư tại tiểu bang này.
Vì không có khiếu ăn nói nên sau khi Kenny rời văn phòng tôi lập tức viết ra những gì mình định sẽ kể cho các em học sinh nghe về lịch sử, địa lý và phong tục tập quán của Việt Nam, tránh những chi tiết rườm rà để có thể kết thúc bài nói chuyện trong vòng nửa giờ. Tôi cũng cẩn thận soạn thảo phần nhập đề và kết luận, hy vọng sẽ tạo được sự tò mò và để lại một vài suy nghĩ cho quý khán thính giả trẻ tuổi của mình. Vì thời giờ eo hẹp, thân bài chỉ là một danh sách liệt kê các dữ kiện, tôi sẽ phải tuỳ cơ ứng biến. Tuy nhiên, tôi không quên ghi xuống vài câu chuyện vui có “dây mơ rễ má” đến đề tài hầu gây sự chú ý, thích thú và tránh sự nhàm chán trong lớp học. Phần trình bày của tôi sáng hôm ấy tại trường Thánh Michael “xuôi chèo mát mái” cho đến lúc các em học sinh đặt câu hỏi…
Chắc các bạn cũng đồng ý với tôi rằng trẻ em Hoa Kỳ rất dạn dĩ; nhưng lạ thay, lớp học lại im phăng phắc sau khi tôi yêu cầu các em nêu lên những thắc mắc, nếu có, và tôi sẽ cố gắng trả lời. Việc này khiến tôi tự hỏi, phải chăng bài nói chuyện của mình quá nhàm chán hay là đã gần giờ cơm trưa, các em học sinh chỉ muốn rời lớp học cho mau? Tôi bèn nảy ra ý định dùng 10 phút còn lại để nói về tạt lon, một trò chơi tuy giản dị nhưng rất phổ biến của lứa tuổi học sinh tiểu học Việt Nam, thì có một bàn tay đưa lên. Ðó là cô bé tóc vàng óng, ngồi giữa lớp. Tôi đưa tay mời, cô học sinh này đứng lên hỏi:
“Em xin hỏi, ông nói rằng, theo phong tục thì người Việt Nam không ăn mừng sinh nhật mà họp mặt gia đình hàng năm vào ngày mất của thân nhân để tưởng nhớ đến họ. Ông cũng có nói cha của ông qua đời trước khi ông rời quê hương. Tôi xin hỏi: Vậy chứ… ông có nhớ cha ông mất vào ngày nào không?”
Khi mới định cư ở Mỹ tôi có chút ngạc nhiên khi biết trong số bạn bè người bản xứ của tôi ít có ai ghi nhớ ngày thân nhân của họ qua đời, nhưng họ không bao giờ quên ngày sinh. Phải chăng cô bé học sinh này không tin rằng tôi nhớ ngày cha tôi mất nên mới hỏi tôi như vậy? Lẽ dĩ nhiên là tôi luôn nhớ cái ngày đau buồn ấy của gia đình chúng tôi, nhưng tôi lại buột miệng trả lời rằng cha tôi qua đời hai ngày sau lễ Phục Sinh. Câu trả lời này đã đưa đến một câu hỏi khác, lần này của một nam sinh:
“Thưa ông, em nghĩ rằng chúng ta ai cũng biết lễ Phục Sinh không phải là một ngày nhất định trong năm, khi thì nhằm vào Tháng Ba, khi là Tháng Tư mà?»
Câu hỏi này làm tôi giật mình, nhận ra câu trả lời của mình đã không thuyết phục được các em. Một vài hình ảnh xa xưa bỗng hiện về khiến tôi trầm ngâm, tư lự trong chốc lát trước khi lên tiếng giải thích:
“Em nói rất đúng. Thật ra, tôi không biết chắc chắn cha tôi qua đời vào ngày nào vì ông chết ở trong… trong tù. Trên giấy thông báo, chánh quyền ghi rằng ngày cha tôi mất là 20 tháng Sáu, năm 1976. Tuy nhiên, khoảng 5 năm sau đó, một bác là bạn tù của cha tôi, sau khi được trả tự do, đã đến nhà tìm chúng tôi và kể lại rằng cha tôi mất hai ngày sau lễ Phục Sinh vào năm 1976. Chính xác là ngày Thứ Ba, 20 Tháng Tư, năm 1976. Tôi không hiểu tại sao có sự sai biệt này. Tuy nhiên, tôi chỉ tin vào lời nói của bác bạn tù của cha tôi. Bác ấy không có lý do gì để nói dối với gia đình chúng tôi. Tôi còn nhớ rất rõ đôi mắt ươn ướt và giọng nói nghẹn ngào của bác khi kể lại cái chết của cha tôi, một cái chết có dính líu đến lễ Phục Sinh. Vì thế cho nên tôi luôn ghi nhớ trong tâm khảm là cha tôi mất hai ngày sau lễ Phục Sinh và tôi đã nói với các em như thế.’’ Lớp học lại im lặng. tôi đảo mắt nhìn quanh lớp, thấy vợ chồng Kenny đang đứng ở cuối lớp cùng với Angela, cô giáo lớp học. Tôi muốn giải thích cùng các em học sinh về cái chết của cha tôi, nhưng vì nó va chạm đến chính trị, tôi ngại mình sẽ thất lời hứa với bạn. Bốn mắt gặp nhau, tôi chợt nhận ra một ánh mắt thông cảm, tiếp theo là một cái gật đầu rất khẽ nói lên sự đồng tình của Kenny. Tôi bèn nói tiếp:
“Tôi xin nói rõ hơn cho các em hiểu, cha tôi bị vào tù không phải vì ông giết người hay phạm một trọng tội nào đó, mà vì ông là một sĩ quan trong quân đội miền Nam Việt Nam. Có thể các em không biết chứ sau khi quân cộng sản chiếm trọn miền Nam, họ bắt mọi người đã từng phục vụ trong chính quyền và quân đội miền Nam vào cái họ gọi là trại cải tạo, nhưng thật ra đó là những nhà tù lao động khổ sai”
Một cánh tay đưa lên, chứng tỏ lớp học đang chú tâm theo dõi, tham gia vào câu chuyện, khiến tôi cảm thấy hăng hái hơn, đưa tay mời em học sinh đặt câu hỏi.
“Thưa ông, em… em thấy tội cho cha của ông quá! Phải chăng ông cụ mất vì làm việc quá cực nhọc, nên kiệt sức? Em nghĩ rằng dù ở trong trại khổ sai lao động như ông nói, tù nhân cũng được nghỉ làm việc ít nhất là một ngày để đi xem lễ, mừng ngày Chúa sống lại chứ, phải không ạ?”
Tôi biết người Mỹ sống tự do, được dạy dỗ về nhân quyền rất sớm nên tôi không ngạc nhiên khi nghe lời nhận xét của em học sinh ấy. Tôi trả lời:
“Cám ơn em đã có lòng thương xót cha tôi. Nhưng, các em biết không, trên thế giới ngày nay vẫn còn nhiều người sống trong sự áp bức, kềm kẹp. Ðiển hình là những người sống dưới chế độ cộng sản, họ không có quyền tự do ngôn luận, tự do tín ngưỡng, tự do đi lại… Sống ngoài đời còn vậy huống chi ở trong tù! Bác bạn tù của cha tôi kể rằng, mùa lễ Phục Sinh năm ấy, mặc dù biết rõ tôn giáo là điều cấm kỵ trong tù, nhưng cha tôi đã bạo gan, kêu gọi các bạn ở cùng phòng giam, cùng tôn giáo với ông tổ chức ngắm 14 Chặng Ðàng Thánh Giá Chúa Giê-Su trong đêm thứ Sáu Tuần Thánh. Họ giả vờ ngồi thiền trên giường và họ phải ngắm trong lòng để khỏi bị bắt. Cha của tôi là người xướng kinh, ông chỉ đọc nho nhỏ tên của mỗi chặng đàng để mọi người cùng hiệp lời kinh. Rủi thay, họ bị cai tù theo dõi và bắt quả tang khi cha tôi đang xướng tên một chặng đàng. Mọi người đều bị phạt, riêng cha tôi bị cùm chân, nhốt vào một căn phòng biệt giam. Bốn ngày sau, khi anh em tù mang thức ăn đến cho cha tôi, họ phát giác ông đã chết tự bao giờ…”
Kể đến đó, thú thật với các bạn, tôi không thể kềm được nỗi thương nhớ cha nên tôi quay mặt về hướng tấm bảng đen, cố gắng nén cơn xúc động, lòng thầm nguyện cầu lòng thương xót của Chúa. Nhưng lời nguyện của tôi bị gián đoạn bởi một câu hỏi khác:
“Thưa ông, người bạn của cha ông có cho biết vì sao cha ông chết không ạ? ”
Tôi đứng im lặng, bây giờ cố nhớ lại tôi nghĩ chắc cũng phải hai ba phút gì đó, trước khi trả lời:
“Bác ấy cho chúng tôi biết những người bạn tù được chỉ định chôn cất cha tôi nói thi thể của ông có những dấu vết bầm tím. Có thể ông chết vì bị tra tấn và cũng có thể vì bị rắn rết cắn nhưng không ai đến cứu. Các em biết không, mạng sống của người tù ở chế độ cộng sản như cỏ rác, đâu có chuyện giảo nghiệm xác của cha tôi để tìm ra lý do đưa đến cái chết của ông theo như luật lệ của xã hội này. Tôi không dám nói cha tôi là một người tử đạo, nhưng tôi tin rằng cha tôi chết vì đức tin và tôi rất hãnh diện là con của ông. Và, đó cũng là lý do gia đình chúng tôi đã phá lệ, mỗi năm họp mặt hai ngày sau lễ Phục Sinh để tưởng nhớ và cầu nguyện cho linh hồn cha của chúng tôi, thay vì đúng vào ngày ông mất. Ðó là lý do tôi đã nói với các em rằng cha tôi mất hai ngày sau lễ Phục Sinh.“
o O o
Trên đây là câu chuyện ông Phận chia sẻ cùng chúng tôi trong một buổi tĩnh tâm với đề tài “Sống đạo, sống đời” tại hội trường giáo xứ Thánh Phaolô. Ông kể đến đoạn ấy rồi đột nhiên chấm dứt, rời bục và chầm chậm bước về chỗ ngồi khiến cho không khí của hội trường rơi vào một tình trạng im lặng thay cho tiếng vỗ tay. Tôi đọc thầm câu kinh cầu nguyện cho linh hồn cụ cố, cha của ông Phận. Lòng tôi rất cảm phục đức tin vững mạnh và ý chí bất khuất của cụ. Rồi tôi tự hỏi, vào cái ngày đen tối 30 tháng tư ấy, nếu tôi không ra đi kịp lúc, phải vào tù như cụ, liệu tôi có thể giữ trọn vẹn đức tin của mình? Tôi trộm nghĩ, câu chuyện của ông Phận có thể sẽ làm nhiều bạn trong buổi tĩnh tâm này có suy nghĩ như tôi.
ĐAD