Má nói, “ở đây cũng yên lắm”. Má nói, giọng rất chắc chắn, nhưng một hồi sau, má lại chậc lưỡi, “ờ, mà thỉnh thoảng buổi chiều thì có pháo kích”.
Má nói, “ở đây cũng yên lắm”. Má nói, giọng rất chắc chắn, nhưng một hồi sau, má lại chậc lưỡi, “ờ, mà thỉnh thoảng buổi chiều thì có pháo kích”.
Má ngó bâng quơ ra ngoài lộ, “nên chiều, đừng lên đây làm gì. Cứ ở dưới hầm cho chắc ăn nghe con”.
Má nói “thỉnh thoảng”, nhưng chiều nào má cũng bắt ăn cơm sớm, quần áo chuẩn bị để tản cư phải sẵn sàng để bên cạnh, và muốn hay không, cũng phải chui xuống hầm. “Cho chắc ăn”. Má nói mình bắn canon bên này, tụi nó pháo từ phía bên kia.
Cái quận má đang làm việc, má khen “yên tĩnh” vì má kể chung quanh đó có nhiều binh chủng khác nhau đang đóng quân và nhiều binh chủng khác ở xa hơn nhưng lúc nào sẵn sàng yểm trợ. Rồi má kể ra những binh chủng nào đóng ngay tại quận và binh chủng nào ở xa. Đì đùng là có tiếp trợ à con. Má nói vậy.
Nhưng nghe má nói, chứ trong trí đám con nít ngồi bên cạnh má hồi đó, có hình dung cách gì đi chăng nữa, thì tất cả các binh chủng cũng đều... giống nhau. Họa chăng chỉ trừ một vài binh chủng có trang phục đặc biệt như hải quân mặc màu trắng, hay phi công mặc loại áo liền quần, chẳng hạn. Còn lại, biệt động quân, thủy quân lục chiến, biệt kích hay nhảy dù..., hình như binh chủng nào cũng quần áo vải hoa, đội nón béret, và đi... giày. Thì phải! Hoặc như bộ binh, pháo binh, địa phương quân có lẽ đều tương tự nhau trong quân phục màu xanh lá!
Má đổi về cái quận lỵ xa xôi này cũng lâu lắm rồi. Hồi trước ba với má sống với nhau không có con, má cưới vợ cho ba, rồi má thôi ở với ba. Má theo đạo công giáo, đi làm công chức. Lâu lâu má về thị xã lãnh lương, ở lại nhà. Hàng xóm và người quen vẫn kêu má là chị Năm, vợ ông thầy. Má lãnh lương ở Hội An, sáng má đi chiều má về. Mua cao lầu cho ba và mì Quảng cho mẹ. Ngày hôm sau má dắt một bầy ra phố, sắm sửa, đi ciné và ăn quán ăn hàng.
Gia đình má ngày xưa ở Vientanne. Má qua Việt Nam một mình, học làm nữ hộ sinh ở Nghệ An. Hôn nhân má trắc trở, má bỏ đi. Trên chuyến tàu từ Vinh ra Hà Nội, má gặp ba. Rồi má ở lại Việt Nam, nhận Việt Nam làm quê hương. Má nói tiếng Việt rất sõi, giọng Quảng Nam pha Nghệ An. Lâu lâu má bị chọc quê chữ ích đọc thành ít, mục đít, tìn địt, chim chít chòe. Ở nhà có chuyện gì quan trọng, ba, má và mẹ nói với nhau bằng tiếng Lào. Đám con trong nhà nghe được “bò mi ngân”, không có tiền, “kinh khầu”, ăn cơm...; và nghêu ngao hát “mè thầu ơi, lục khơi ma lèo...” mà không hiểu gì hết.
Má không bao giờ kể chuyện quê hương thật của má. Mà nói, “má đi lâu rồi, quên hết chuyện cũ”. Nhưng có lần gặp một người Lào trước nhà, má đứng nói chuyện rất lâu, mặt má rạng rỡ, giọng nói giọng cười hân hoan như đang trẫy hội. Lớn lên, xa quê hương rồi, mấy chị em mới biết làm sao mà má quên được quê cũ, làm sao mà má không nhớ nơi chôn nhau cắt rốn của mình. Ba có kể thuở má rời Vientainne, má sắp sửa hai mươi tuổi.
Mùa hè năm đó, má thuyết phục, hiệp định Ba Lê ký rồi, ngưng bắn rồi, nên chỗ làm việc của má “cũng yên lắm”, rồi má năn nỉ cho mấy chị em lên chơi cho biết. Mẹ lo, hỏi có gì ở đó. Má không biết trả lời sao. Nhưng mấy chị em lao nhao đòi đi nên cuối cùng mẹ cũng phải đành đồng ý. Nhưng hình như phải mất cả hơn tuần sau, mấy chị em mới được xếp quần áo vào giỏ xách theo má rời khỏi thị xã.
Từ thị xã, đón chuyến xe sớm, lắc lư trên chuyến xe đò chật cứng người, đến xế chiều mới tới nơi. Dọc đường, xe phải ngừng lại nhiều lần ở những trạm kiểm soát, và phải chờ xe rà mìn chạy trước. Nhiều đoạn, chừng như hai bên đường chỉ có cỏ khô và đồng ruộng hoang vu cằn cỗi, không thấy bóng dáng người.
Lên đến chỗ má ở. Cái quận lỵ buồn hiu hắt, mỗi ngày chỉ có một chuyến xe đò chạy qua trước con đường đầy bụi. Xa xa cách trạm xá má làm việc, đìu hiu một vài căn nhà gỗ lợp tôle. Và hầu hết những người ở đó đều làm việc cho phòng hành chánh của quận. Má nói ngày xưa có mấy người biết chơi dominos, sau này họ đổi đi nơi khác, má không còn biết giải trí bằng thứ gì.
Mấy chị em lên chỗ má cũng không biết giải trí bằng thứ gì. Má ở phía bên trái trạm xá, phía bên phải dành cho sản phụ. Lúc không có sản phụ, các căn phòng chỉ những chiếc giường trải drap trắng, vắng ngắt đến lạnh cả người. Mấy chị em không đứa nào đủ can đám léo hánh qua đến đó. Má có bàn cờ tướng và mấy bộ bài. Chơi tam cúc, chơi qua cạc tê chán, cả đám ngồi ngó nhau.
Qua được vài ngày, má lùa xuống hầm sau giờ cơm chiều, hai con nhóc vớ được mấy cuốn truyện Tuổi Hoa không biết của ai để quên, và hai cuốn của Mai Thảo vẫn còn mới tinh. Nói truyện... ông kẹ này để cho “bả” đọc. Nhà ở thành phố nhiều truyện “ông kẹ”, ba và các anh không cho rớ tới. Sợ tiêm nhiễm thói lãng mạn. Lên ở với má, thích gì má cũng chiều, nên nói với má ngày mai tụi con ăn cơm dưới hầm luôn. Mười ba tuổi, đọc “Đêm giã từ Hà Nội”, “Sống Chỉ Một Lần”, mấy mươi năm sau mới hiểu tại sao thuở đó ba chưa cho đọc truyện người lớn. Má thấy, hỏi truyện này có lớn quá không con. Đáp con đọc chơi thôi mà. Má im lặng, rồi cười, leo lên mấy bậc thang.
Đi chơi với má, thăm chỗ làm của má, suốt ngày nằm dưới hầm đọc truyện, lâu lâu má chạy xuống hỏi thích ăn gì. Những thứ ba không cho ăn ở thành phố, sợ độc, đòi gì má cũng mua, cũng làm.
Kỷ niệm với má, có lẽ vui nhất là lần đi thăm má ở cái quận lỵ xa xôi và khá mất an toàn kia. Câu má hỏi nhiều nhất trong ngày là “ở đây buồn quá hả con?”. Đáp không. Má lại hỏi “không có truyền hình để coi con có buồn không?”. Trả lời không, má yên tâm đi làm việc, nhưng năm bảy lát sau lại trở về câu hỏi đầu tiên.
Ở phía sau bịnh xá má làm việc có khoảng đất trống, má nói đất đai cằn cỗi quá chỉ trồng được mấy bụi khoai mì và mấy luống rau muống khô. Mà thật ra cây ăn trái lâu năm ở đây không ai dám trồng, sợ “tụi nó pháo vào”. Hỏi má chỗ nào có cây trái là nhà dân mà má. Má cười, nhà dân tụi nó mới pháo. Mười ba tuổi, con gái thành thị, làm sao mà hiểu nổi trên đời lại có loại người “nhà dân tụi nó mới pháo”.
Một xế chiều, nghe má băn khoăn hoài câu “tụi con có buồn không”, mấy chị em kéo nhau ra sau bịnh xá ngắm mấy đọt khoai mì mỏng mảnh, ngó đám rau muống ốm nhách đang cố rướn mình lên khỏi đám đất cằn khô. Má nói không có thứ gì cho tụi con ăn chơi cho vui. Hôm qua má lùi khoai lang và nấu xôi bằng ống tre, loại xôi đặc biệt của người Lào. Má nướng cả con gà gói trong lá chuối, bên ngoài bọc đất sét. Con gà lúc mở ra thơm phưng phức và ngọt lịm. Không lẽ đòi má làm cái món phức tạp hoài, nên trả lời tụi con đâu có cần gì. Má ngồi nghĩ tới nghĩ lui một hồi rồi nói tối má gói bánh nậm và làm bánh bột lọc cho ăn. Xong má đuổi trở vô nhà, nói sợ tụi nó pháo vào.
Tới bữa cơm, má kho thịt gà. Nồi thịt kho sệt, bóng nước màu và thơm mùi tiêu làm khi không chợt nhớ đến đám rau dền mọc dại ngoài vườn sau của má. Nói con thèm ăn rau dền luộc chung với rau sam. Má chậc lưỡi, rau dền thì dễ, mà rau sam ở đây đất khô quá không biết có hay không. Con nhóc em nói con thấy giữa đám rau muống có rau sam. Nghe, má lật đật chạy ra vườn. Trời chiều sắp sập tối, nắng còn nhiều lắm một vài giọt rớt trên hàng rào kẽm gai phía trước nhà. Vài tiếng cắc bụp bắt đầu nghe loáng thoáng ở đâu đó vọng về, và tiếng muỗi bắt đầu vo ve. Vậy mà ra ngoài, hồi lâu má trở vô với mớ rau dền và một mớ rau sam. Má dặn hai con em, luộc chung, nhưng phải để dành riêng cho chị.
Má làm việc ở đó cho đến năm má bị thương. Bị pháo kích. Đức Dục mất, Thường Đức mất, má về thị xã dưỡng thương. Con đường từ thị xã đến chỗ má ở bằng phẳng, không trạm kiểm soát, không đì đùng canon, không trọng pháo, không cả M16, K54 tạch đùng bắn lẻ, nhưng chẳng mấy đứa đi thăm má thường.
Má dưỡng thương, rồi vết thương má lành, má làm việc trở lại. Cuộc đời trôi đó đây, thời cuộc đẩy con người trôi đó đây. Mấy mươi năm sau, má đi xa hơn, xa tít xa. Về ngàn. Chỗ má ở nương rẫy xanh cây trái. Lần cuối cùng đi thăm má đã có xoài, có mít ăn cho vui. Nhưng hình như đã tới lúc không còn muốn ăn cho vui. Đứa con xa nhà sợ mập. Sợ đủ thứ. Má đuổi bắt con vịt. Lúc ăn thịt vịt luộc chấm nước mắm gừng, không phải cho vui mà cho má vui, nhắc chuyện ngày xưa đi thăm má. Nhắc xôi nướng ống tre. Và gà nướng đất sét. Má nói má làm hết nổi rồi. Và má cười, bảo lần này gặp con chắc rồi thôi. Chậc lưỡi với má, đáp thôi sao được. Nói, con ở bên kia một mình, hiểu má đã cô đơn ra sao. Má cười. Hàm răng rụng gần hết. Móm mém.
*
Cuối cùng má đi xa hơn. Về tận bên kia cõi người. Ngày má đi, nghe kể lại má bình yên. Ngày má đi có mây trắng bay. Có trời xanh biếc. Và không có súng đạn. Má nằm một chỗ rất an lành, ở vùng đất đỏ.
Bao nhiêu năm lưu lạc phương trời, những lần trở lại, chẳng bao giờ nghĩ má xa xôi đến vậy. Lúc đi viếng má, không thấy má vào ra ở ngôi nhà gỗ lim, cứ tưởng như má đang lui cui hái rau ngoài vườn. Rau sam. Dẫu dường như chỉ được ăn bữa rau ấy là lần cuối cùng. Ở quê hương.
Má đi bao nhiêu năm. Buổi chiều ở thành phố miền trung bắc Mỹ, nơi chỉ vài ba tháng nắng còn suốt năm trường giá lạnh, những ngọn rau màu hồng tia tía tím vươn mình ra cuối chân rào đã làm sững người đứa con lưu lạc chân trời. Thật không thể nào tưởng tượng cái thứ cây chỉ mọc dại bên kia chân trời lại có mặt, lại hiện diện ở vùng trời này. Như huyền thoại. Như cổ tích.
Thật không thể nào tưởng tượng được những ngọn rau với thân mập mạp lòa xòa đám lá nhỏ, dày, và căng đầy nhựa sống dường chỉ sống ở miền nhiệt đới lại có thể tồn tại sau nhiều tháng giá tuyết lạnh lùng.
Cũng thật chẳng thể nào tưởng tượng bao nhiêu năm ký ức về má lại rõ nét, lại ngọt ngào hiện ra như một giòng suối mát, như một áng mây xanh tươi giữa trời như vậy.
Đã có rất nhiều năm đứa con xa nhà đan chiếc áo, móc chiếc khăn quàng, nhớ đến má đã dày công chỉ vẽ. Khi nấu miếng cơm nếp mềm mại không đong nước mà không cần dùng chõ xôi, khi kho miếng thịt tươm màu nâu bóng loáng mà không cần thêm dầu ăn, cũng chỉ nhớ đến má đã ân cần dạy dỗ...
Nhưng buổi chiều nay khi hái ngọn rau sam vào luộc, nghe vị chua chua trên đầu lưỡi, và nghe giọt nước mắt tràn ra thật nóng trên vành mi, lòng hỏi lòng, thật xót xa, không hiểu bây giờ má có biết con đang nhớ má?