main billboard

 

Chiếc mặt nạ bố cô vẫn đeo suốt đời mình. Có lẽ giờ chết không cần nữa, nó mới rơi xuống. Cô cúi xuống cầm nó trên tay, không phải không thoáng lo sợ và ghê tởm.

matna

Mặt nạ

Nhà đông người, nhưng không ồn ĩ, vì người ta đang tập trung trước giờ hấp hối của một trong những người thân của họ. Hơn thế, người hấp hối lại danh giá, nổi bất nhất và là niềm tự hào xưa nay của cả dòng họ. Một ông quan. Quan xưa đã ghê gớm, quan cách mạng bây giờ còn ghê gớm hơn.
Với nét mặt đau buồn hoặc cố gượng đau buồn, người ta khe khẽ trao đổi với nhau đôi câu thường thấy trong những trường hợp thế này. Những lời hỏi thăm, an ủi chiếu lệ. Những cái chép miệng, thậm chí cả những giọt nước mắt.
Bà vợ và cô con gái đã lớn của người hấp hối luôn đi lại trong căn phòng chật cứng, mời nước, mời thuốc và thi thoảng nói đôi lời, cũng rất chiếu lệ.
Người hấp hối nằm ở phòng bên, trên chiếc giường rộng trải vải trắng toát. Trong phòng không có ai vì bác sĩ yêu cầu để ông được yên tĩnh, dẫu chỉ một chốc.
Đó là một người đàn ông da ngăm đen, khá gầy nếu xét qua đôi tay và đôi chân trần lộ ra dưới lớp vải. Nhưng nếu nhìn mặt thì đó là một người có khuôn mặt đầy đặn, hồng hào, có thể nói rất ưa nhìn, dẫu ít nhiều xa lạ. Nhìn nó, người ta chẳng biết nó đang khen hay chê mình, đang cười, dửng dưng hay thậm chí đang khóc. Thành ra, khuôn mặt đầy đặn có vẻ cởi mở ấy rốt cục vẫn kín mít và vô cảm. Ông còn trẻ, chưa đến sáu mươi nhưng đã là một cán bộ cấp cao, rất cao, và chắc chắn sẽ còn lên cao nữa nếu không bị căn bệnh ung thư quái ác này cản đường.
Khuôn mặt mở mà kín đáo, thân thiện mà vô cảm ấy của ông giữ vai trò quyết định trên con đường thăng tiến.
Ở phòng ngoài, bà mẹ bảo cô con gái:
“Con vào với bố đi. Đừng để bố một mình”.
Cô gái, một sinh viên năm cuối trường Ngoại Giao, lẳng lặng làm theo lời mẹ. Vừa mở cửa, cô chợt nghe có tiếng gì đấy rơi, kêu đánh keng giữa sàn nhà đá cẩm thạch. Trên giường, người hấp hối nằm đầu ngoẹo sang một bên. Cái vật rơi ấy chắc từ người ông. Cô vội chạy lại và thấy bố đã chết. Đúng lúc định kêu lên gọi mẹ thì cô phát hiện thấy một điều rất khác thường.
Đó là khuôn mặt bố cô. Nó không còn hồng hào, dễ mến và đầy đặn như vốn có. Thay vào đó là một khuôn mặt xa lạ, xấu, gian hiểm, gầy và đen xạm như đôi chân và tay. Cô ngạc nhiên không tin vào mắt mình, đến mức không biết phải làm gì. Bất chợt cô nhìn xuống sàn nhà và thấy cái gì đấy mỏng, bằng kim loại. Mặt nạ! Chiếc mặt nạ bố cô vẫn đeo suốt đời mình. Có lẽ giờ chết không cần nữa, nó mới rơi xuống. Cô cúi xuống cầm nó trên tay, không phải không thoáng lo sợ và ghê tởm.
Lưỡng lự một chốc, cô sửa đầu bố nằm thẳng rồi vội vàng đặt nó lên mặt ông. Khuôn mặt ông lại ửng hồng, cởi mở và đôn hậu. Nó nhìn cô với vẻ hài lòng.
Trong tiếng khóc thút thít, tiếng chia buồn và tiếng những bước chân cuống quít, người ta liệm người chết vào quan tài. Tiếp đến là dòng người xếp hàng để nói lời vĩnh biệt, bày tỏ lòng thương xót và kính trọng với chiếc mặt nạ nằm sau ô kính nhỏ.


Hoa sen Bồ tát

Họ hay gặp nhau ở hồ Kim Đài, trong hồ có nhiều bèo tây và sen. Có thể vì thế mà mỗi lần nhớ cô, anh hay nghĩ về hoa sen, đặc biệt những bông hồng hồng sắp nở. Cũng có thể vì đôi má cô có màu hồng như thế. Cả cặp vú non, nhòn nhọn dưới lớp vải lụa mỏng cũng gợi anh nghĩ đến một cái gì đấy đẹp, tinh khiết và thơm. Cái ấy chỉ có thể là hoa sen.
Chuyện xẩy ra đã lâu. Cô là cô gái quê lên thủ đô học đại học. Anh là con nhà danh giá, giàu có mười đời sinh sống ở đất này. Rồi họ yêu nhau, như phần nhiều những cặp trai gái khác yêu nhau - không quá hời hợt mà cũng chẳng mấy say đắm, nhưng chân thành.
Một tối nọ, ngồi trên chiếc ghế đá ven hồ thưởng thức làn gió mát từ phía sông Hồng thổi tới và hương sen dìu dịu từ hồ bay lên, cô bảo anh cô đã có thai.
Vốn được quá nuông chiều cả từ phía gia đình lẫn bè bạn, anh có cảm giác như mình bị xúc phạm khi phải rơi vào một tình huống thụ động và đột ngột như vậy. Giữa lúc lúng túng không biết nói gì, làm gì, anh đã buột miệng thốt ra một câu ngu ngốc mà vì nó ân hận cả đời:
“Thế à? Em có chắc là con anh không?”
Cô nhìn anh, đôi mắt mở to đầy kinh ngạc và đau đớn, rồi ù bỏ chạy. Còn anh, như bị trói vào ghế, vẫn ngồi yên, ngồi đến tận sáng hôm sau. Khi anh đến ký túc xá tìm người yêu với ý định xin lỗi và nhanh chóng tổ chức lễ cưới, người ta nói cô đã xin thôi học, bỏ đi đâu không rõ. Từ bấy đến nay hai mươi lăm năm đã trôi qua, và anh chưa gặp lại cô lần nào.
Hồ Kim Đài ngày nay không còn như xưa. Nhỏ hơn nhiều, có đường đi lát đá bao quanh. Chính giữa hồ không hiểu sao người ta dựng chiếc lầu nhỏ tám mái bằng ngói sành màu xanh thẫm. Trong lầu, cao trên bệ đá hoa cương là tượng Quan Âm Bồ Tát tọa trên đài sen màu trắng. Dưới hồ sen vẫn nở, nhưng toàn màu hồng.
Anh, bây giờ đã là một người đàn ông tóc hoa râm, vẫn thỉnh thoảng ra ngồi bên hồ. Ngồi đúng chỗ ngày xưa, nơi anh và cô gái của anh đã ngồi vào cái đêm cuối cùng định mệnh ấy, dẫu bây giờ chiếc ghế đá không còn. Ông sống một mình không vợ con, gia tài bố mẹ để lại tiêu tán hết vào những chuyến đi dài ngày tìm kiếm người yêu. Ông đã thật sự hối hận và đau khổ vì câu nói ngớ ngẩn, không suy nghĩ đó. Lo lắng cho số phận cô gái, và cả đứa con của mình, ông tìm kiếm họ khắp nơi nhưng không thấy.
Mười giờ đêm. Đèn chiếu sáng quanh hồ phụt tắt do đang trong tháng tiết kiệm điện. Dây đèn trang trí màu đỏ trong lầu vẫn sáng, không hiểu từ nguồn nào. Cả bức tượng và đài sen có màu hồng nhạt như những bông sen dưới hồ ban ngày. Ông vẫn ngồi yên, nghĩ về màu hồng đôi má và cả đôi vú nhỏ, nhọn của người yêu năm nào. Hình như đã khuya. Chỉ còn lại một đôi bạn trẻ ngồi bên chiếc ghế cách đấy không xa. Bất giác ông thở dài, thầm mong họ không lặp lại bi kịch của ông.
“Anh xin lỗi. Xin mẹ con em hãy tha thứ cho anh”.
Ông nói với bức tượng Quan Âm Bồ Tát trên đài sen màu hồng giữa hồ. Nếu có thể, ông đã lội nước đến quỳ trước nó mà nói. Rồi ông thành kính chắp tay trước ngực:
“Xin Bồ Tát lòng lành giúp con!... Hãy ban ơn giúp con!...”
Bất chợt, bức tượng Bồ Tát động đậy. Ngài từ từ bước lại, đặt ông lên bàn tay của mình rồi bay đi.
*
Sáng hôm sau, ông tỉnh dậy gần một ngôi chùa lạ.
Trước mắt ông là một ni-cô trẻ, mặc bộ quần áo nhà chùa màu nâu còn mới. Không hỏi, không mời, cô gái lặng lẽ đưa ông vào chùa.
Chùa ở lưng chừng núi, lọt thỏm giữa những tán cây xanh. Phía dưới lác đác mấy ngôi nhà tồi tàn được dựng theo kiểu rất lạ ông chưa thấy bao giờ. Điều này khiến ông nghĩ ông đang ở một nơi nào đấy rất xa. Trước chùa có chiếc bể lớn bằng xi măng giả làm ao, lơ thơ mấy bông sen đang nở như ở hồ Kim Đài. Bất giác nhìn xuống nước, ông thấy mình với khuôn mặt phờ phạc ốm yếu, mái tóc xù, cái lưng gù gù dẫu chưa già và bộ quần áo nhàu nát.
Trụ trì là một sư thầy trạc tuổi ông nhưng trông trẻ hơn nhiều. Bà có khuôn mặt đẹp, đôn hậu đến mức thánh thiện nhưng vô cảm. Bà hồi lâu nhìn ông cũng với vẻ lạnh lùng, vô cảm ấy. Ông không lấy thế làm buồn vì biết người tu hành thường có vẻ ngoài như vậy, dù họ tốt bụng.
Thay cho câu cảm ơn bình thường, ông nhắc lại hai tiếng “mô phật” của sư thầy khi bà mang tới đĩa khoai luộc và bát nước. Bà lặng lẽ nhìn ông ăn. Nhìn ông còn có một người nữa, đó là Bồ Tát. Ngài đang ngự trên một đài sen bằng đá cẩm thạch màu trắng như ở hồ Kim Đài, ngay gần ông nhưng chắc mải ăn nên ông không nhìn thấy. Ông cũng không nhận thấy khuôn mặt thánh thiện của sư thầy trụ trì có màu hồng hồng trông giống một bông chưa nở. Bông sen Bồ Tát.
Ăn xong, ông tựa lưng vào chiếc tràng kỷ gỗ rồi thiếp lúc nào không biết.
Lát sau, cô gái bước vào:
“Ông ấy đâu rồi mẹ?”
“Bồ Tát đưa ông ấy về rồi”, sư thầy trụ trì đáp.
“Trông ông ấy tội nghiệp quá”.
“Ừ, tội nghiệp. Bố con đấy”.
Hồi lâu, cô gái mới lên tiếng, giọng bình thản.:
“Sao mẹ không giữ ông ấy lại?”
“Chưa phải lúc. Vì bố con không thấy mẹ đã khóc. Bố con chưa đau khổ đến mức có thế thấy người khác khóc mà không cần nước mắt hay thay đổi nét mặt”.


Chuyện làng và người làng

Hồi cải cách ruộng đất năm 1956 tôi còn nhỏ, nhưng cũng đủ lớn để chứng kiến khá nhiều chuyện xẩy ra trong làng. Mãi đến giờ tôi vẫn không sao quên nổi cái không khí điên khùng, kỳ cục những ngày ấy. Cả làng như đang trong cơn lên đồng tập thể. Đêm nào cũng họp hành và đấu tố. Hàng xóm đấu hàng xóm, thằng ở đấu ông chủ, có cả trường hợp anh em đấu nhau hay thậm chí con cái đấu cha mẹ. Toàn những mày tao chi tớ, nhổ nước bọt, chỉ tay dí mặt trông mà khiếp. Ban ngày thì cả làng kéo nhau đi xem xử bắn bọn “gián điệp” và “cường hào gian ác”. Làng mình không hoặc chưa có thì xem ở làng khác.
Nổi bật nhất là lễ rước “quả thực”, tức là lễ rước khắp làng những của cải, đồ đạc tịch thu của địa chủ trước khi chia cho dân làng. Vui lắm, thích lắm. Nhưng địa chủ thì ít, lại chủ yếu thuộc diện qui chụp theo chỉ tiêu trên giao xuống, nên cũng chẳng có nhiều để chia. Thế mà ai cũng hỉ hả ra mặt. Tự dưng không đâu người ta cho mình cái này cái nọ, hỏi làm sao không vui? Nhà tôi thuộc diện bần cố nông nên cũng được một cái chum và nửa con trâu, chung với ông bác. Bố mẹ tôi cũng hỉ hả lắm, dù tôi biết hai cụ chưa bao giờ phải đi ở hay làm thuê cuốc mướn cho tên địa chủ nào. Qua vụ này, tôi đâm ra ghét mấy ông bà nông dân tham lam, tráo trở.
Chỉ đạo toàn bộ cuộc lên đồng tập thể kéo dài cả tháng ấy là hai ông Đội, một từ Vinh, một từ tận trung ương về. Ông trung ương là người làng, có tên Hoạt, nghe nói ông tự xung phong, chứ cỡ ông không ai xuống cấp xã. Ông này trạc ba mươi lăm, bốn mươi tuổi, người vạm vỡ, ít nói và có thói quen chốc chốc lại ngúc ngắc đầu như đang cố xua một con ruồi vô hình.
Để nêu gương cách mạng, ông chọn ở nhà lão Thọt theo phương châm ba cùng, là cùng ăn, cùng ở và cùng làm việc, mặc dù ông chỉ về ngủ vào lúc đêm khuya, trên cái giường duy nhất trong nhà. Lão Thọt thì ngủ trong ổ rơm dưới bếp, thường có tôi ngủ cùng vì lão có cả một kho truyện ma để kể. Bù lại, ban ngày tôi nhổ tóc bạc và bắt rận cho lão. Không hiểu sao người ta gọi Thọt khi lão đi đứng bình thường như mọi người. Lão còn khỏe mạnh dù đã hơn sáu mươi, trước từng đi lính sang Dijon bên Pháp. Nhưng lão mù, mà cũng mới đây thôi, sau một lần đau mắt và được ông thầy lang làng bên chữa bằng cách đắp hai con nhái đã nướng chín lên mắt.
Mấy ngày sau khi Đội về, đêm nằm lão bảo tôi:
“Chúng nó bắt đầu ăn thịt nhau đấy mày ạ?”
“Sao phải ăn thịt nhau?” tôi hỏi.
“Rồi mày xem. Bọn này chẳng hay ho gì đâu”.
“Bọn nào ạ?”
“Bọn Đội. Bọn chó chết. Nhất là thằng Lan”.
Lan là tên anh Đội thứ hai. Hắn còn trẻ nhưng rất hống hách, chuyên xúi người ta đấu nhau, và là thằng đầu têu đánh dã man những người bị qui oan. Đã thế hắn còn tham ăn và háu gái. Người ta thấy hắn bắt gà vịt và sờ mông, bóp vú đàn bà giữa ban ngày ban mặt mà chẳng ai dám nói gì. So với hắn, ông Hoạt còn tử tế hơn nhiều, dẫu vì ông khối người phải khốn khổ.
Một tối nọ cô Bích, cháu đằng ngoại của lão Thọt, tấm tức chạy đến bảo lão cô bị hắn đè ra hiếp, dọa nếu không chịu, cả nhà cô sẽ bị qui địa chủ, tức là bị xử bắn. Lão Thọt nghe không nói một lời nào. Đêm ấy tôi nghe lão nghiến răng kèn kẹt mãi. Tối hôm sau, lúc ấy đã khuya, lão chui vào ổ rơm, ôm chặt tôi rồi thì thầm:
“Tao giết hắn rồi!”
“Giết ai?” tôi ngạc nhiên hỏi.
“Thằng chó chết ấy chứ còn ai nữa. Chém một phát đứt ngang cuống họng. Ngoài đíếm canh”.
“Nhưng bác mù…”
“Mù ít thôi. Tao giả vờ đấy. Cấm mà bép xép với ai đấy nhé! Tao giết!”
Khỏi phải nói cả làng bị một phen điêu đứng thế nào. Người ta khám từng nhà, tra khảo từng người. Có hẳn một đoàn công an từ huyện về mà cuối cùng vẫn không tìm ra thủ phạm giết thằng Lan. Tất nhiên không ai nghi ngờ lão Thọt, vì lão mù.
Dần dần mọi chuyện cũng lắng xuống. Tiếp đến là sửa sai và làng lại đi vào nếp cũ. Ông Hoạt quay ra Hà Nội với công việc xưa nay của mình trong ngành an ninh. Ông thăng quan tiến chức nhanh chóng và chẳng bao lâu trở thành người danh giá nhất làng, đặc biệt khi ông về thăm quê bằng ô tô con, chiếc đài bé xíu đeo bên hông. Ở thủ đô, lần nào gặp mặt đồng hương xã nhân năm mới ông cũng có mặt, và đương nhiên ngồi ở chỗ nổi bật nhất, được trọng vọng nhất. Tôi cũng nhiều lần bắt tay, nói chuyện với ông, dẫu không mấy thân mật vì chênh lệch tuổi tác và nghề nghiệp. Tôi tặng ông một vài cuốn sách tôi viết, và ngạc nhiên khi biết ông đọc chúng. Thậm chí đọc kỹ, có lần còn gọi điện nhận xét. Hình như ông thích tôi, tôi không biết vì sao, nhưng có cảm giác như thế. Một lần vui miệng, ông nói ông đã cứu tôi khỏi bị công an bắt.
“Ngày mới về nước, cậu viết mấy bài thơ ủy mị, kêu khổ. Chúng nó đưa vào sổ đen, định bắt nhưng tớ đỡ cho, bảo người cùng làng và thằng ấy tốt nên mới thôi”.
Tôi cảm ơn ông và chẳng biết nói gì thêm. Tôi có biết mình bị theo dõi, nhưng bị bắt và đi tù như một số văn nghệ sỹ lúc ấy thì quả thật không ngờ tới. Mà rồi tôi chỉ mới tập tạnh vào nghề chứ đâu đã thành danh như bây giờ.
Một hôm, cách đây khoảng ba năm, ông gọi điện cho tôi và nói, giọng quan trọng:
“Cậu đến ngay nhà tớ, có việc muốn nhờ!”
Đến nơi, tôi ngạc nhiên thấy ông đang đứng chờ trước cổng nhà, mặc bộ quân phục đại lễ, huân huy chương đầy ngực. Ông vội chui vào xe và nói như ra lệnh:
“Lên Chèm! Khoan hẵng hỏi. Tớ sẽ chỉ đường.” Ông vẫn chưa quên cái giọng nói chuyện với cấp dưới khi ở cơ quan, dù đã về hưu gần hai chục năm nay, và tôi là người làng ông đang nhờ giúp đỡ.
Tôi lặng lẽ làm theo, tò mò muốn biết chuyện gì đang xẩy ra.
Cuối cùng, ông bảo tôi dừng xe bên sông Hồng, cách đền Ông Trọng không xa. Lúc ấy đã sáu giờ và mặt trời đang tắt dần ở phía Tây. Tôi bước theo ông đi xuống mép sông, vẫn hoàn toàn chưa biết ông định làm gì. Ở tuổi tám mươi, trông ông còn khỏe và cao lớn. Cái đầu vẫn thỉnh thoảng lắc lắc như xưa. Thế mà nghe nói như ông đang bệnh nặng.
Chỗ sông này nước xoáy, ăn lõm vào bờ khá sâu. Ông đứng lên tảng đá lớn sát bờ, ra hiệu tôi lại gần và nói, cũng bằng cái giọng ra lệnh lúc nãy:
“Hãy nhìn cho kỹ những gì tớ sắp làm…”
“Bác định làm gì?” tôi hỏi, không dấu nổi sự ngạc nhiên và sợ ông nhảy xuống sông tự tử.
“Cậu sẽ biết ngay đây. Tớ chỉ cần cậu như một người làm chứng”.
Rồi ông thong thả cởi từng chiếc huân, huy chương trên bộ quần áo đại lễ màu trắng, vứt mạnh xuống dòng nước chảy xiết. Khoảng dăm chiếc, và tôi chẳng biết đó là huân, huy chương gì.
“Xong. Ta về! Coi như cậu đã trả ơn tớ không cho công an bắt ngày nào.”
“Vì sao bác làm thế?” tôi hỏi khi đã ngồi trên xe.
“Vì tớ sắp chết”. Biết tôi đang ngạc nhiên, ông nói tiếp: “Mà trước khi chết ai cũng muốn lòng mình thanh thản”.
“Vâng, nhưng chuyện này liên quan gì đến mấy chiếc huân chương?”
“Tại chỗ nước xuáy kia, sau khi cướp chính quyền năm bốn lăm, tớ đã giết một lãnh tụ đảng Việt Quốc. Bắt cóc giữa đường, cho vào bao tải rồi ném úm xuống đó. Ban đêm, tất nhiên, và cùng hai đồng chí khác của Nha cảnh sát cách mạng”.
Tôi ngồi im, chẳng biết nói gì.
“Và người ta tặng huân chương cho tớ về việc ấy”, ông hạ giọng, vẻ chua chát.
Im lặng một lúc, tôi nói, cốt để an ủi ông:
“Cái thời nó thế thì phải thế. Vả lại, đấy là nhiệm vụ cách mạng giao.”
“Đành vậy, nhưng dẫu sao… Nếu là tớ, cậu có thể chết thảnh thơi được không?”
“Không”.
Khi xe về gần đến nhà, tôi hỏi:
“Sao bác không bảo con cháu làm cái việc bác nhờ tôi hôm nay?”
“Cái bọn hời hợt, hãnh tiến ấy, nhờ để chúng phá à? Chúng chỉ có một niềm tự hào duy nhất là con cháu cán bộ cách mạng lão thành”.
Một tháng sau ông chết ở bệnh viện K, suýt đươc an táng trong nghĩa trang Mai Dịch. Tất nhiên các đài, báo trung ương đều đưa tin, long trọng và cảm động