Chính vì có công lớn, lại được vua chúa nuông chiều, nên họ sinh ra thói kiêu căng, xem thường luật pháp.
Năm 1552, nhà Lê dấy lên từ Thanh Hóa, trong lúc này nhà Mạc hãy còn làm chủ miền Bắc, kể từ trấn Sơn Nam trở ra (Ðông Nam Hà Nội, giáp ranh Thanh Hóa.) Nhà Lê muốn phục hưng, phải tuyển lính ở ba phủ là Hà Trung, Thiệu Hóa và Tĩnh Gia thuộc hai tỉnh Thanh Hóa và Nghệ An.
Sau này, nhà Lê đuổi được nhà Mạc ra khỏi Thăng Long, thì quân ở ba phủ trên (tục gọi là lính tam phủ) được coi là thân binh hay ưu binh, nhất binh; và được vua chúa tin dùng làm quân phòng vệ bởi họ đã đóng góp nhiều công lao trong chiến đấu. Chính vì có công lớn, lại được vua chúa nuông chiều, nên họ sinh ra thói kiêu căng, xem thường luật pháp.
Cảnh sát chìm Hà Nội bắt người biểu tình chống Trung Quốc. (Hình minh họa: Ian Timberlake/AFP/Getty Images)
Năm Giáp Dần (1674) đời Trịnh Tạc, bọn kiêu binh đã giết quan Tham Tụng Nguyễn Quốc Trinh và phá nhà Phạm Công Trứ.
Năm Nhâm Dần (1782) Trịnh Sâm mất, Ðặng Thị Huệ và Hoàng Ðình Bảo (Quận Huy) mưu lập Trịnh Cán lên làm chúa. Chỉ huy kiêu binh là Nguyễn Bằng vào phủ chúa đánh ba hồi trống làm hiệu, quân ưu binh kéo đến vây phủ, vào giết Hoàng Ðình Bảo, bỏ Trịnh Cán và Ðặng Thị Huệ, lập Trịnh Khải lên làm chúa. Từ đó kiêu binh một ngày một hống hách, cậy công, cướp phá các nơi, không ai dẹp được.
Kiêu binh lại cậy số đông, đứng ra đánh thuế, thu lợi nơi chợ búa, cửa ải, bến đò...
Tháng Năm, 1786, quân Tây Sơn tiến ra Bắc, Lê-Trịnh tìm cách chống giữ, nhưng kiêu binh lúc này đã quen thói kiêu căng, lại rất sợ chinh chiến, nên lấy cớ chờ lương, để chần chừ không chịu tiến quân, khiến trong kinh thành càng xôn xao lo sợ, ai nấy đều lo riêng cho thân mình tháo chạy. Tháng Bảy, 1786, quân Tây Sơn tiến ra Thăng Long, nhà Trịnh sụp đổ, nạn kiêu binh cũng chấm dứt theo.
Tại miền Nam, vào đầu năm 1970, đã dấy lên một phong trào kiêu binh, nói rõ là phong trào thương phế binh đua nhau đi “cắm dùi” chiếm đất, ngang ngược và công khai mà chính quyền hồi đó đành bó tay, không dám đụng đến họ vì sợ mất lòng quân đội đang chiến đấu ở tiền tuyến.
Ðỗ Văn Lai, một thương binh BÐQ mù mắt, cùng một số phế binh nặng, tại Trung Tâm Chỉnh Hình, trong chiến dịch chiếm đất đã biểu tình, đòi chính phủ phải cứu xét lại quyền lợi của họ, trước vật giá leo thang đắt đỏ.
Ở Sài Gòn, thương phế binh chiếm lề đường Tú Xương, đóng cọc, chăng dây, che bạt chia nhau từng khu vực dựng cây cất nhà bất hợp pháp chung quanh Bộ Xây Dựng Nông Thôn và Viện Quốc Gia Phục Hồi, trong nghĩa trang Mạc Ðỉnh Chi, trên lề đường Lý Thái Tổ, ngay trước trụ sở của Ủy Ban Quốc Tế Kiểm Soát Ðình Chiến, trên đường Nguyễn Thông, nơi có hàng quán chợ trời.
Ngày 29 Tháng Ba, 1970, một đại hội thương phế binh được triệu tập tại trường Quốc Gia Nghĩa Tử quy tụ 300 đại diện TPB thi nhau tố cáo chính phủ đối xử với họ không đúng mức. Tổng Hội Thương Phế Binh ra đời tại Sài Gòn, bầu TB Nguyễn Ðịnh làm hội trưởng, TB Nguyễn Bính Thinh, tức nhà văn An Khê, làm phó, và TB Ðinh Trung Thu, tổng thư ký. Thương phế binh đưa lý do nhiều người chưa có nhà, họ có thể lập một ủy ban tranh đấu và có thể kéo tới chiếm các khu đất khác như đất Chú Hỏa, ông Phụ Tá Nguyễn Cao Thăng và có thể cả nhà... của ông tổng trưởng Bộ Cựu Chiến Binh nữa. Chủ tịch Thượng Viện Nguyễn Văn Huyền có đến dự và nói trước đại hội rằng ông sẽ lấy tư cách một đại diện dân cử để làm một điều gì tốt đẹp cho thương phế binh.
Tòa Ðô Chính Sài Gòn thông báo, trong lúc chính phủ đang tìm những biện pháp giúp đỡ các thương phế binh một số người đã lợi dụng anh em để mưu cầu những lợi lộc riêng tư và phá rối an ninh trật tự công cộng.
Lợi dụng sự tự do và dễ dãi trong chế độ dân chủ mà những người lãnh đạo không thể nhân danh trật tự xã hội để đàn áp như trong các chế độ sát máu, độc tài, một số nhỏ thương binh bị xúi giục, mua chuộc và có những hành động quá khích làm mất lòng dân, vượt qua pháp luật, gây ra một tình trạng rối ren tại hậu phương để tạo khó khăn thêm cho chính phủ đương thời và tạo những hình ảnh không mấy tốt đẹp về người lính.
Nhiều toán thương phế binh chiếm cả đất tư, chủ đất phải năn nỉ lạy lục chi tiền, lo lót, họ mới “nhổ cọc, cuốn dây” đi tìm chỗ khác. Ở Nha Trang, thương phế binh tràn ra bờ biển, cắm cọc chia lô ngay trên bãi biển.
Dưới triều đại cộng sản, trong thời bình, vai trò của “quân đội nhân dân” bị lu mờ và được đảng cho làm kinh doanh có miếng ngon để khỏi nhiễu sự, “bộ đội cụ Hồ” ngày nay vừa lãnh lương lính vừa lãnh lương công ty. Hiện tại, Bộ Quốc Phòng đang quản lý hơn 110 doanh nghiệp, hoạt động trên nhiều lĩnh vực kinh doanh như: cơ khí, hóa chất; nông, lâm và hải sản; điện, điện tử, viễn thông; dệt may, da giày; thực phẩm, đồ uống, dược phẩm; thủ công mỹ nghệ, đồ gỗ; thương mại và dịch vụ; xây dựng, vật liệu xây dựng...
Ðảng cũng không thể dùng quân đội để đàn áp, dân oan, biểu tình... nên đảng phải vịn vào công an như khẩu hiệu “còn đảng còn mình” cũng có nghĩa là đảng sống còn phải nhờ vào sự bảo vệ của công an. Bắt bớ, giam cầm người bất đồng chính kiến, còng tay người yêu nước, đàn áp dân oan, đạp vào mặt người biểu tình, không ai khác hơn là công an, người đầy tớ trung thành với đảng trong khi Hồ Chí Minh tuyên truyền đảng là đày tớ của nhân dân.
Theo nghị định 44/2005/ND-CP năm (2005) quy định cấp bậc của tư lệnh sư đoàn, hay chỉ huy trưởng BCH quân đội cấp tỉnh (tương đương chức tiểu khu trưởng thời VNCH) chỉ là đại tá, trong khi hiện nay công an đứng đường biên giấy phạt cũng đã là đại úy, công an phường đã mang cấp bậc trung tá, công an huyện là đại tá, và công an tỉnh mang “hàm” thiếu tướng đồng loạt trong trận “mưa ân sủng” của đảng vừa qua. Chúng ta cũng nên biết giám đốc công an Hà Nội trước đây là Trung Tướng Nguyễn Ðức Nhanh và Bộ Trưởng Công An Trần Ðại Quang đang mang cấp bậc đại tướng (!).
Lực lượng công an CSVN được tin cậy và nuông chiều như lực lượng trấn áp nhân dân của chế độ, nên họ trở thành đám kiêu binh, hống hách, giết người không gớm tay. Trên những bản tin trong nước, từ Hà Nội, Hà Giang, Hưng Yên đến Quảng Nam, Khánh Hòa, Bình Dương... ở đâu cũng có chuyện công an đánh chết người, mà công lý luôn luôn đứng về phía... đảng. Dân chủ ngày nay dưới chính thể cộng sản có nghĩa là “mày là dân mà chúng tao là chủ!” Nói theo lối “lưỡi gỗ” Tôn Nữ Thị Ninh thì dân là con cái trong nhà cần dạy dỗ, mà gia nhân ra tay là bọn khuyển ưng cậy thế chủ mà làm càn.
Ở hải ngoại này cần sự đoàn kết một lòng vì việc lớn, chúng ta ráng kềm chế đừng ai cho mình là công thần trong quá khứ, sẽ tránh được nạn kiêu binh.