« tình trạng của tôi rất căng , nếu nói ra không biết cô có nắm bắt được không ?
Tuần trước tôi vừa « nhập viện » . Nói cho cam , chẳng phải tôi xin vào Viện Mồ Côi làm gì vì đã quá già , cũng không phải vào Viện Hán Học xin thầy mấy chữ thánh hiền , vào Viện Thẩm Mỹ để sửa sang lại dung nhan , cũng chẳng phải vào viện Nghiên Cứu Mác- Lê Nin của ông Hoàng Minh Chính để làm quái gì , vậy mà bạn bè , bà con cứ nói một hai là tôi « nhập viện » .
Đơn giản là tôi mới vào nhà thương , hay nói chữ nghĩa là tôi vào nằm bệnh viện , cái gì mà cứ nằng nặc một hai gán ép cho tôi là « nhập viện » , cho danh chính ngôn thuận , nếu gọi nhà thương là viện thì bệnh nhân nằm nhà thương gọi luôn là « viện sĩ » cho được việc . Cũng như trước đây mấy chục năm , bọn Cộng Sản cứ một hai đòi « cải tạo » chúng tôi và đặt cho chúng tôi một danh từ khá kêu là « cải tạo viên » .
Từ trước năm 1975 , chúng ta chữ nghĩa có lẽ còn ít ỏi , lại không thích dùng quá nhiều chữ Tàu , nên những chữ chúng ta dùng rất đơn giản , thế mà ngày nay ... Ngày nay , ngay cả những bạn ngày xưa dạy học cùng trường , sau này trong những cuốn đặc san của các cựu học sinh , cũng uốn viết , uốn lưỡi để nói rằng : « ... năm 1972 , tôi « nhận công tác giảng dạy » tại trường X » nghe tức anh ách cả bụng . Đi dạy học thì cứ nói là đi dạy học , cần gì phải gọi là nhận công tác giảng dạy .
Ở Hải Ngoại nhiều bậc thức giả đã lên tiếng về cái điều gọi là loạn chữ nghĩa , mà cách dùng chứng tỏ CSBV lệ thuộc vào văn hoá Tàu Cộng một cách quái đản , khiến người ngoài nước không hiểu nổi khi đọc chữ nghĩa của người trong nước . Những chữ có « mùi Tàu » quen dùng và đã ảnh hưởng không ít đến truyền thông và người Việt ở Hải Ngoại vẫn thường nhan nhản thấy và nghe hằng trăm , nghìn chữ nghĩa nghe rổn rảng như những miếng sắt va chạm nhau của anh mù đấm bóp của những ngày tháng Sài Gòn năm xưa , như những chữ « chất lượng » , « liên hệ » , « đăng ký » , « xuất khẩu » , « tranh thủ » , « khẩn trương » , « nhất trí , « hồ hởi - phấn khởi » , « bức xúc » , « nghiêm túc » , « quân hàm » , « sự cố » , « tham quan » , « chuyển ngữ » , « quá độ » , « cực kỳ » ... « thể tạng » con người thì trong nước dùng là « cơ địa » , nghe qua bạn có hiểu nổi không ? « Triều cường » là gì ? « Vĩ mô » là gì ? Nào là « chùm » , nào là « luồng » ! Phải chăng phải tra cứu loại « tự điển Cộng Hoà Xã Hội Chủ Nghĩa Việt Nam » mới hiểu nổi . Các bạn nghĩ thế nào với những danh từ kỹ thuật số ( digital ) , máy quét ( scanner ) , phần mềm ( software ) ...
Trong địa hạt giao thông , vận tải không biết sao những người chuyên về các vấn đề này lại là những người thích dùng chữ mới , nghe rất kêu , cứng ngắc như « bê tông cốt sắt » nhưng rất vô nghĩa và xốp ruột như loại « bê tông cốt tre » , sản phẩm nổi tiếng của XHCN . Bạn nghĩ thế nào với những « cụm từ » ( lại nói theo kiểu mới ) như « kéo giảm tai nạn » , « ùn tắc giao thông » , « phân luồng xe chạy » , « bố trí lệch ca » để nói về giao thông , vận tải .
- « Trong quá trình bê tông quá độ bị lún , sự cố bất ngờ các khuyết tật nên các đơn vị dược giao nhiệm vụ quản trắc phải báo cáo diễn biến đột xuất của hầm chui , và tôi đề nghị nâng tĩnh không của cầu lên từ 3 M lên 3 ,5 M » ( nói về cầu Văn Thánh ) .
- « Chốt lại vấn đề kích cầu sản xuất , tiếp theo mạch phân công nhiệm vụ phải tuỳ vào sự giải trình cũng như thái độ cầu thị của Bộ Trưởng » .
- « Phạm trù quản lý đô thị hiện nay có rất nhiều bất cập , mảng đô thị của chúng ta nói rất mờ nhạt » .
- » Phạm trù chuyên chở đại chúng chưa được phủ kín đến vùng dân cư đông đúc mà còn tồn tại nhiều lỗ hổng » ( phát biểu của Bộ Trưởng Giao Thông ) .
- « PMU 18 là sai phạm nghiêm trọng , bộc lộ yếu kém ở cấp vĩ mô , xin ông cho phóng viên nắm bắt giải trình cụ thể » ( câu hỏi của phóng viên nhà báo ) .
- « Vốn kiên cố hoá trường học giải ngân quá chậm » ( Ông Bộ Trưởng Giáo Dục nói về ngân sách giáo dục ) .
Những chữ nghĩa loại này nhan nhản trên báo chí , đài phát thanh , truyền hình trong nước ( Việt Nam Cộng Sản ) . Chưa gặp được ông Thủ Tướng để phỏng vấn vì ông quá bận , thì ký giả báo đảng viết rằng : « Thủ Tướng có nhiều cuộc họp bất thường , chưa tìm được thời gian thích hợp để phỏng vấn , nên đành tranh thủ những khe hẹp trong lịch trình đông đặc của Thủ Tướng để xen vào » . Không biết đối với một vị Nữ Thủ Tướng thì nhà báo có dùng nguyên văn như vậy không ? Nói chúng đây là những danh từ rất lạ mà nhà báo trong nước hay các viên chức viết , báo cáo diễn văn , không viết nổi một câu văn bình thường dễ nghe , mà vì mặc cảm đã cố tạo ra những danh từ rất kêu , nhưng xem chừng vô nghĩa và rất dung tục . Hồi chúng ta còn ngồi ở ghế nhà trường mà viết những loại chữ nghĩa như thế trong bài luận văn thì chắc chắn bị thầy , cô « sổ toẹt » .
Trong ngôn ngữ , có một số tiếng do nhân gian dùng lâu thành quen , nên cũng có một số không đúng với nguyên nghiã của nó , tuy nhiên xã hội chủ nghĩa hiện nay đang có khuynh hướng cố tạo ra những danh từ kêu to , lạ lùng và không kém kỳ quái và thô lậu . Vì sao phải dùng « tình trạng của tôi rất căng , nếu nói ra không biết cô có nắm bắt được không ? » hay « tranh thủ những khe hẹp trong chương trình dày đặc ... của Thủ Tướng ! » .
Nhà văn Đặng Trần Huân lúc sinh thời đã có viết một bài báo nhan đề là « Nghĩ thương cho chữ nghĩa » cũng trong tấm lòng xót xa của những người trí thức nghĩ về tình trạng bất hạnh của ngôn ngữ đang bị biến dạng , dày vò một cách thô bạo trong bàn tay của những kẻ thiếu văn hoá .
Ba mươi ba năm nay , do tình thế của đất nước , ba triệu người Việt phải sống cuộc đời tỵ nạn ngoài quê hương của mình , sự khác biệt trong và ngoài nước càng ngày càng thấy rõ , từ văn hoá , phong tục , cho đến ngôn ngữ , khiến chúng ta không chỉ cảm thấy xa cách về địa lý mà còn ngay khi ở ngay trên quê hương , vẫn cảm thấy mình lạc lõng , xa lạ . Chúng ta có thể nhìn cách lối diễn tả , cử chỉ , ngôn từ , để biết người ấy ở đâu , chịu chi phối bởi thứ văn hoá nào .
Chỉ mong sao Hải Ngoại đừng « bê » nguyên con một bản tin của Hà Nội với những chữ nghĩa rối bời để ném vào mặt độc giả , hay viết lách , ăn nói bằng những loại chữ nghĩa mới mẻ , nghe rổn rảng nhưng thực sự kệch cỡm , vô nghĩa .
Nói xa nói gần , để kết thúc sự rối rắm này , tôi cũng xin loan báo với bạn bè , là tôi vừa « xuất viện » , vì ở đầu bài tôi bị « nhập viện » , may mắn không phải nhập nhà vĩnh biệt hay lò thiêu , thì đến lúc được « xuất viện » . Đây chắc chắn không phải ám chỉ tôi vừa tốt nghiệp Học Viện Cảnh Sát Quốc Gia , hay tốt nghiệp Viện Mác–Lê mà đơn giản là tôi vừa ra khỏi nhà thương . Vậy mà đi đâu bạn bè cũng chúc mừng tôi vừa « xuất viện » . Trong muôn nghìn thứ « viện » trên đời này sao chữ nghĩa Cộng Sản cứ bắt « viện » phải là cái « nhà thương » , mà chúng ta lại phải cứ dùng một cách lười biếng vô ý thức , cóp nhặt mà không hề suy nghĩ . Không lẽ bây giờ lại phải thua thêm một keo vì những thứ văn hoá , chữ nghĩa như thế sao ?