Con người trên thế gian không ai tránh khỏi sự chết.
Thân thế và sự nghiệp
Từ thuở nhỏ cho đến lúc trưởng thành, tôi không theo một tôn giáo nào cả. Gia đình tôi chỉ thờ cúng ông bà.
Năm 1958, tôi đã được 15 năm trong binh nghiệp. Với cấp bậc đại tá, tôi giữ chức vụ tư lệnh Quân Khu I, gồm 9 tỉnh miền đông Nam Bộ.
Lúc đó, các thầy tướng số và các nhà sư khuyên tôi nên lập trang thờ các vị thần. Tôi tin vào lời khuyên và bắt đầu thờ Ông (Quang Công, Lưu Bị, và Trương Phi), Đức Phật Thích Ca, và Phật Bà Quan Âm.
Mặc dù tôi thờ Phật, tôi không hề đi chùa, không đọc kinh Phật, nên tôi chẳng hiểu biết giáo lý Phật Giáo.
Sự thờ phượng của tôi chỉ với mục đích được bảo hộ bản thân. Vì bận công việc hằng ngày, tôi không có thì giờ tìm hiểu các vấn đề cơ bản trong Phật Giáo, nhất là sự ăn năn, sự tha tội, và sự cứu rỗi linh hồn.
Cuối năm 1963, tôi được vinh thăng thiếu tướng vì có công trong cuộc đảo chính lật đổ chế độ Ngô Đình Diệm. Cuộc đời binh nghiệp của tôi từ đây có những bước tiến vọt đáng kể:
– 1964 – 1965: Làm tư lệnh Quân Đoàn IV, rồi làm tư lệnh Quân Đoàn III.
– 1965 – 1966: Tổng tham mưu trưởng Trường Quân Lực Việt Nam Cộng Hoà, phó thủ tướng kiêm tổng trưởng Quốc Phòng.
Khi địa vị tôi càng cao, càng vững vàng, tôi càng tin nơi các đấng hộ mệnh. Tôi biệt riêng một phòng để thờ cúng.
Tôi cũng thờ thêm nhiều vị Phật khác như: Phật Di Lặc, Phật Bà Chúa Xứ, Phật Đầu Xà (Thái Lan), các Thần Tài, Thổ Địa v.v.
Tôi chi tiền rộng rãi mua sắm hương đèn và hoa quả. Còn việc thờ cúng, tôi giao cho quản gia và người chị vợ trách nhiệm mỗi đêm thắp hương niệm Phật.
Khi các vị thượng khách đến thăm Việt Nam, họ biết tôi mộ đạo (dù chỉ bằng hình thức), nên họ tặng tôi nhiều tượng Phật quý, thỉnh từ các chùa ở Lào, Thái Lan, và Miên.
Tôi cũng đeo trong người hằng chục tượng Phật nhỏ bằng vàng, ngà voi, hoặc đá quý do nhiều người gởi tặng để lúc nào tôi cũng được che chở hộ mạng.
Gia đình tôi quan niệm rằng nếu muốn cho linh hồn mình được cứu rỗi trong đời sau, chúng tôi phải lo tích đức, làm lành lánh dữ, dâng hiến cho các chùa, và làm công tác từ thiện ở đời nầy.
Đời binh nghiệp và chính trị của tôi lên đến tột đỉnh từ giữa năm 1965 đến đầu năm 1967.
Với địa vị đứng hàng thứ ba, sau hai Tướng Nguyễn Văn Thiệu và Nguyễn Cao Kỳ, tôi chẳng những có thanh thế trong nước, mà còn có tiếng tăm ở nước ngoài.
Tôi đã đi thăm và hoạt đông ngoại giao ở nhiều nước trên thế giới. Ở Châu Á, tôi đã đi thăm Thái Lan, Đài Loan, Phi Luật Tân, và Đại Hàn.
Ở Châu Âu, tôi đã đến các nước Anh, Đức, và Ý. Đặc biệt tôi được Đức Giáo Hoàng Paul VI tiếp kiến tại Tòa Thánh Vatican.
Ở Phi Châu, tôi đã thăm và gặp gỡ các vị Tổng Thống Bourguiba của Tuninie, Tổng Thống Houphonet của Côte d’ Ivoire.
Ở Hoa Kỳ, tôi đã được mời thăm một số lớn căn cứ quân sự Mỹ tại Hawaii và trên đất liền.
Những Bước Thăng Trầm
Thử Thách Thứ Nhất
Cuộc đời không có gì bền vững cả! Địa vị, danh vọng, tiền bạc, hạnh phúc, v.v… chúng đến khi gặp thời và ra đi khi vận hết.
Năm 1967, với địa vị phó thủ tướng chính phủ kiêm tổng trưởng Quốc Phòng, tôi được hai tướng Thiệu và Kỳ yêu cầu tôi đi Đài Loan với tư cách đại diện quân đội và chính phủ Việt Nam để cám ơn Tổng Thống Tưởng Giới Thạch và chính phủ Đài Loan về những giúp đỡ quân sự, ngoại giao, và sự chân tình ủng hộ công cuộc chống Cộng của miền Nam Việt Nam.
Trong chuyến công du bảy ngày nầy, tôi còn được giao phó:
– Khai trương đường bay Air Vietnam Sai Gon – Tapei
– Thăm Trường Đại Học Quân Sự Võ Bị
– Nghiên cứu tổ chức, hoạt động Hội Cựu Chiến Binh Đài Loan.
Tôi được đón tiếp như một thượng khách với các nghi lể đầy đủ.
Báo chí Đài Loan cũng đề cao ca tụng tôi. Khi cuộc công du diễn ra tốt đẹp, đến ngày thứ ba, bất trắc xảy ra cho tôi.
Đại sứ Việt Nam tại Đài Loan là Tướng Trần Thượng Khiêm và đại sứ Trung Hoa Quốc Gia tại Việt Nam là Hồ Liên xin đến gặp tôi tại khách sạn ban đêm để trao cho tôi bản tin nhận được từ Sài Gòn.
Tôi bị Hội Đồng Quân Lực xét xử và cách chức phó thủ tướng và tổng trưởng Quốc Phòng.
Đồng thời, tôi bị giải ngũ khỏi quân đội.
Tôi hơi bàng hoàng vì trước ngày tôi lên đường, mọi việc có vẻ bình thường. Tôi lấy lại bình tĩnh và nhận định đây là một âm mưu gạt tôi ra nước ngoài để loại tôi ra khỏi chính quyền.
Hôm sau, Tướng Nguyễn Văn Thiệu gởi điện văn qua yêu cầu tôi sau khi chấm dứt công tác ở Đài Loan, tiếp tục dẫn phái đoàn đi thăm Đại Hàn.
Tôi liên lạc về Sài Gòn, nói chuyện trực tiếp với Tướng Thiệu. Tôi trình bày rằng tôi không thể đi Đại Hàn được vì các anh đã “cách chức tôi”.
Hơn nữa, cuộc công du nầy không được chuẩn bị.
Thiệu cố ý ép đôi đi Đại Hàn với dụng ý đưa tôi đi xa để tôi khỏi về nước, nhưng tôi xin được đến Hồng Kông tị nạn chính trị. Cuối cùng, Thiệu ưng thuận.
Ngày 20 tháng Giêng, 1967, tôi rời Đài Bắc với lễ nghi tiễn đưa bình thường.
Tôi rất cảm kích về sự chân tình của Tổng Thống Tưởng Giới Thạch và chính phủ Đài Loan đã thông cảm hoàn cảnh tôi.
Về đến khách sạn Fortuna ở đường Nathan, có Thiếu Tướng Linh Quang Viên điện thoại đến xin gặp tôi.
Anh Viên được Thiệu cử sang Hồng Kông gấp để trao cho tôi bức thư Thiệu viết tay với nội dung ngắn gọn đầy sự hăm dọa.
Thiệu khuyên tôi tạm ở nước ngoài, để anh em bên nhà sắp xếp công việc. Nếu tôi tìm cách trở về, Thiệu không bảo đảm sinh mạng.
Anh Viên là người ôn hòa được tôi yêu mến. Anh đang giữ chức vụ bộ trưởng Bộ An Ninh. Tôi vui vẻ bảo với Anh Viên về trình với Thiệu, tôi sẽ không làm gì gây khó khăn cho anh em bên nhà, miễn là các anh em xử đẹp với tôi.
Tôi mau chóng ổn định cuộc sống ở Hồng Kông. Tôi thuê được một nhà nhỏ để tôi và hai sĩ quan tùy viên trung tín ở chung. Đó là Đại Úy Đoàn Văn Sanh và Nguyễn Văn Huỡn (về sau tôi cho Anh Sanh về nước, còn Huỡn ở với tôi một năm).
Tôi dần dần có nhiều bạn bè ở Hồng Kông. Một số bạn bè do Tòa Tổng Lãnh Sự Đài Loan giới thiệu (tổ chức chìm không có văn phòng).
Họ là những người giàu có trong tổ chức Quốc Dân Đảng ở Hồng Kông.
Những người nầy tìm cách an ủi tôi bằng những cuộc chiêu đãi vui chơi, ăn uống, và du ngoạn.
Có một số khác là người Việt Nam sinh sống lập nghiệp ở Hồng Kông. Trong số nầy, đáng kể nhất là Cụ Lưu Đức Trung, 67 tuổi, trước làm cố vấn cho Vua Bảo Đại, lúc Cựu Hoàng Đế nầy sống lưu vong ở Hồng Kông (1946-49).
Một người nữa là Hồng Hữu Ba, 40 tuổi, quê ở Bạc Liêu, có vợ người Hoa làm ở bệnh viện Hồng Kông. Ông còn làm chấp sự Hội Thánh Tin Lành Hồng Kông. Ông bà thường đến nhà tôi để chia xẻ về Đức Chúa Trời, về Đấng Cứu Thế Jesus.
Ông bà tặng tôi quyển Kinh Thánh Tân Ước, khuyên tôi nên đọc và suy gẫm lời Chúa.
Tôi ghi nhận lòng tốt và sự sốt sắng của họ, nhưng thú thật lúc đó, cửa tâm hồn tôi còn đóng kín, và ánh sáng chân lý chưa lọt được vào trong. Tôi chẳng chú tâm tìm hiểu và cũng lười đọc Kinh Thánh.
Tôi tạm yên vui với cảnh sống ở Hồng Kông. Vợ con tôi mỗi năm sang thăm và ở lại với tôi vài lần. Gia đình tôi bên nhà cũng yên ổn sau vài tuần gặp khó khăn ban đầu. Với thời gian, việc gì cũng qua. Việc của tôi bị lãng quên khỏa lấp bởi những sự việc mới.
Sau khi đắc cử, Tổng Thống Thiệu triệu hồi tôi về nước. Tướng Trần Thiện Khiêm làm đại sứ ở Đài Loan; Tướng Đỗ Cao Trí làm đại sứ ở Đại Hàn. Giữa năm 1969, Thiệu cũng nhờ Tướng Trần Văn Đôn (nghị sĩ) sau khi công tác ở Đài Loan, ghé Hồng Kông, cho tôi biết Thiệu đã đồng ý cho tôi về nước.
Mãi đến ngày 29 tháng Giêng, 1970 Thiệu mới gởi điện cho tôi trở về.
Ba năm ở Hồng Kông đã làm cho tôi đủ thời gian suy gẫm và định hướng tương lai cuộc đời.
Tôi quyết định sau khi trở về nước, tôi sẽ xóa hết mọi thù hiềm, quên đi chuyện cũ.
Tôi dứt khoát không tham gia chính trị và chỉ lo làm ăn nuôi sống gia đình.
Thử Thách Thứ Hai
Trong năm 1970, tôi lập một trại nuôi gà ở Xã Phước Long, Thủ Đức. Tôi thu nhập tạm đủ cho gia đình chi dùng.
Cuối năm 1970, do giao dịch với Tín Nghĩa Ngân Hàng, tôi gặp lại Anh Nguyễn Tấn Đời và nối lại tình bạn cũ ngày trước.
Anh Đời mời tôi hợp tác với Tín Nghĩa Ngân Hàng. Tôi chấp nhận ngay vì việc chăn nuôi cũng bấp bênh, không có tương lai.
Sau khi học việc một thời gian, Anh Đời cho tôi làm phó tổng giám đốc các chi nhánh.
Với chức vụ nầy, tôi thường đi thanh tra các chi nhánh ở Sài Gòn và các tỉnh từ 9 chi nhánh lúc ban đầu phát triển thành 22 chi nhánh lúc Tín Nghĩa Ngân Hàng bị rút giấy phép.
Tháng 4, 1973, Tín Nghĩa Ngân Hàng bị rút giấy phép hoạt động vì Đoàn Thanh Tra Ngân Hàng đã thấy nhiều hồ sơ cho vay bất hợp lệ.
Anh Đời và các nhân viên chủ chốt bị bắt giam ở Chí Hòa và bị truy tố ra tòa.
Tôi cũng bị truy tố nhưng được tại ngoại, có lẽ vì tôi không dính líu đến việc làm ăn cho vay ở trụ sở trung ương.
Thế là tôi bị mất việc, phải xoay ra nghề khác sinh sống. Tôi mở một tiệm buôn xe đạp ở Sài Gòn và lập một cơ sở chế biến khô mực xuất khẩu ở Vũng Tàu.
Thử Thách Thứ Ba
Năm 1975, sau khi Phước Long, rồi Ban Mê Thuột bị thất thủ, tôi bắt đầu lo lắng cho số phận miền Nam Việt Nam.
Khi chính phủ quyết định rút bỏ Kontum và Pleiku, tình hình quân sự suy sụp mau chóng.
Trọn tháng Tư, tôi đã bỏ hết công việc làm ăn để tìm phương tiện đưa gia đình ra nước ngoài, nhưng số phận tôi đã an bài.
Tất cả những lo liệu của tôi đều thất bại. Gia đình của tôi bị kẹt lại sau ngày miền Nam hoàn toàn thất thủ.
Tôi không trách bạn bè sao không giúp đỡ vì trước cảnh dầu sôi lửa bỏng, ai cũng lo cho bản thân mình trước đã.
Là kẻ chiến bại còn ở lại, tôi phải chấp nhận mọi tình huống nguy hiểm xảy ra.
Trước hết là mất tài sản. Tôi được lệnh lên Đà Lạt hoặc ra Vũng Tàu và giao nhà cho Ủy Ban Quân Quản.
Cơ quan nầy từ chối không cấp cho tôi biên lai nhận nhà. Đây là sự tước đoạt chứ không phải là chuyển giao.
Nhà tôi đang ở 181 Đường Cách Mạng cũng giao cho chủ mới. Lúc đó, mạng sống còn không bảo đảm được huống chi là tài sản!
Cuối cùng là lệnh gọi đi trình diện cải tạo. Từ đây, những ngày dài vô tận và cô cùng đen tối đã bao trùm lên tôi và gia đình tôi.
Tôi Nhìn Biết Đức Chúa Trời
Mùa hè 1977, tôi và ban tướng lãnh (31 người) đang ở Trại 5 Yên Bái.
Chúng tôi từ Trại Quang Trung đã được chuyển ra đây bằng phi cơ từ mùa hè trước (1976).
Ở đây, chúng tôi phải lao động nặng nhọc. Mỗi tuần, trừ những người đau yếu, chúng tôi phải lên núi đốn củi đem về đun.
Hôm ấy trời nóng bức oi ả. Sau khi đốn xong một vác củi, đúng chỉ tiêu (khoảng 25 ký), tôi ngồi nghỉ mệt trên đồi dưới bóng mát, chờ anh em đốn xong để được lính canh đưa về trại một lượt.
Tôi nhìn xem cảmh vật chung quanh. Trên cành cây có chim đang nhảy nhót. Từng đàn bướm lượn quanh khoe cánh với đủ màu sắc rực rỡ.
Trên trời, từng đàn mây trắng bay với nền trời xanh trong trẻo. Các chú chuồn chuồn bay chập chờn như những chiếc trực thăng cực nhỏ.
Bất giác, tôi tự hỏi ai tạo ra vạn vật trong thiên nhiên. Chẳng lẽ mọi vật tự nó có, và vũ trụ đặt ra quy luật và phát triển tồn tại ư?
Từ suy nghĩ đó, tôi nhìn lên trời cao và nghĩ đến một Đấng mà thế gian gọi là Ông Trời hay là Thượng Đế. Tôi nghĩ phải có Đấng Tạo Hóa dựng nên thế gian và mọi loài vạn vật.
Với ý nhĩ đó, tôi so sánh Ông Trời với Ông Phật. Người ta thường nói Trời mưa, Trời nắng, Trời gió, Trời lạnh, v.v… Còn Ông Phật không được gọi như thế.
Sau chuyến đi lấy củi hôm ấy, tôi có một nhận thức mới. Đó là điểm khởi đầu tôi nhìn biết Đức Chúa Trời.
Từ đấy, tôi nhìn và lối suy nghĩ khác hẳn trước. Đối với hoạn nạn tôi đã trải qua, tôi không quy cho số phận may rủi nữa. Tôi nghĩ rằng Đức Chúa Trời, Đấng đựng nên tôi, ắt có quyền trên đời sống tôi. Mọi việc xảy ra trong đời tôi đều do ơn Ngài quyết định.
Chúa Làm Phép Lạ Trong Gia Đình Tôi
Ngài Cứu Con Trai Tôi
Vợ chồng chúng tôi có mười hai người con, bốn trai, tám gái. Chúng tôi rất khổ tâm khi có đứa con trai hư đốn, nghiện ngập, xì ke. Đó là đứa con trai thứ nhì Nguyễn Hữu Trung, sinh năm 1955.
Trung đã nghiện ngập xì ke trước ngày mất miền Nam. Sau năm 1975, gia đình túng thiếu, cuộc sống chật vật, nhưng Trung vẫn tìm mọi cách moi tiền đi hút.
Chúng tôi có gởi Trung vào Trường Phục Hồi Nhân Phẩm (cải tạo xì ke, ma túy, và gái điếm) ở Bình Triệu.
Được một thời gian, trường cho về nhà, nhưng Trung vẫn không bỏ được xì ke.
Đến tháng Tám, 1979, Trung bị nghiện nặng và bỏ nhà ra đi một thời gian.
Vì thiếu tiền và thiếu thuốc, Trung bị cơn ghiền dày vò hành hạ nên trở về nhà. Hai hôm sau Trung lên cơn sốt nặng; người gầy yếu chỉ còn da bọc xương (Trung cao 1m72, chỉ còn 28 ký).
Gia đình chở Trung lên Bệnh Viện Nguyễn Văn Học (Gia Định) lúc chiều. Các bác sĩ khám cho Trung. Lúc ấy Trung đã hôm mê và nằm như người chết.
Bác sĩ thử tủy cột sống. Trung không còn tủy nữa. Các bác sĩ cho biết Trung không thể nào sống được tới 12 giờ đêm và khuyên gia đình nên chuẩn bị mai táng.
Hôm đó nhằm ngày thứ Bảy. Gia đình chúng tôi có vài đứa con tin Chúa (hai con gái Nguyễn Thị Ngọc Thu, Nguyễn Thị Thanh Loan, và Nguyễn Thị Minh Trang là vợ Trung).
Tối hôm ấy, chúng nó đi nhóm Nhà Thờ Tin Lành Trần Cao Vân và xin Mục Sư Hồ Hiếu Hạ dâng lời cầu nguyện xin Chúa chữa bệnh cho Trung.
Cả Hội Thánh cầu nguyện. Tan buổi nhóm, Mục Sư Hạ và một số thanh niên đến nhà chúng tôi để cầu nguyện cho Trung đến 11 giờ đêm, nhưng vợ tôi vẫn chuẩn bị mọi việc để mai táng Trung.
Ngày hôm sau, trời vừa mờ sáng, Ngọc Thu đã đến bệnh viện. Vì có lời dặn của bác sĩ hôm trước nên Thu đi thẳng xuống nhà xác.
Không có xác Trung ở đây! Thu hơi mừng và đi gấp lên phòng bệnh, chỗ Trung nằm, vừa đi vừa cầu nguyện Chúa.
Đến nơi, Thu rất đổi ngạc nhiên! Trung đã tỉnh táo và đòi ăn cháo. Các bác sĩ cũng ngạc nhiên và nói chỉ có phép lạ Trung mới có thể sống được như thế. Sau một tuần nằm điều trị ở bệnh viện, Trung hầu như hồi phục và được xuất viện.
Chúa Chữa Bệnh Phổi Cho Trung
Về nhà được ít lâu, Trung bị bệnh lại. Đó là bệnh phổi tái phát.
Năn 1973, lúc Trung còn học tại Trường Hạ Sĩ Quan Nha Trang, có lần Trung đã nằm viện giải phẫu lấy mủ ở phổi.
Ngọc Thu đưa Trung vào Bệnh Viện Hồng Bàng trong Chợ Lớn trị lao. Nơi đây, sau khi chụp hình phổi, thử đàm, và thử máu, bác sĩ cho biết Trung đã bị lủng phổi rất nặng. Trung phải nằm bệnh viện và cách ly với vợ con.
Tạm thời, Trung phải trở về nhà đợi một tuần vì bệnh viện chưa có chỗ nằm. Cả gia đình cầu nguyện, xin Chúa thương xót và chữa lành bệnh cho Trung.
Tuần sau, Trung trở lại để làm thủ tục nhập viện. Bác sĩ cho chụp hình phổi trở lại. Rất kỳ lạ là hai lá phổi đều tốt hoàn toàn.
Các thử nghiệm khác đều cho kết quả tốt. Các bác sĩ đều ngạc nhiên về trường hợp nầy.
Một lần nữa, Đức Chúa Trời đã chữa bệnh cho Trung, để qua đó, cả gia đình đều đến với Ngài. Ha-lê-lu-gia, cảm tạ Chúa!
Ghi chú:
Sau sự việc nầy, vợ Trung là Minh Trang được người cô ở Pháp giúp đỡ mua nhà ở riêng và làm ăn phát đạt.
Hiện vợ chồng Trung có đứa con gái xinh đẹp và rất hạnh phúc. Nguyện xin Chúa ban ơn và gìn giữ gia đình Trung để chúng nó đứng vững đức tin mà theo Ngài.
Chúa Chữa Lành Bệnh Khó Cho Vợ Tôi
Đầu Năm 1983, vợ tôi bị bệnh tiểu đường, nước tiểu trắng đục như vôi. Nhà tôi nhờ Bác Sĩ Nguyển Sào Trung chữa trị. Bệnh không thuyên giảm. Bác Sĩ Trung đề nghị vợ tôi đi xét nghiệm và hội chẩn của các bác sĩ. Thạc Sĩ Ngô Gia Hy cho biết vợ tôi bị một chứng bịnh kỳ lạ.
Hàng triệu người mới có một người bị bệnh như vậy. Có một loại gium chỉ ở trong thận. Dùng thuốc không thể trục chúng ra được, mà giải phẩu mới mong cứu sống vợ tôi.
Tuy nhiên, giải phẫu cũng không chắc thành công vì bệnh viện thiếu phương tiện. Hơn nữa, sức khỏe vợ tôi sa sút, khó có thể chịu nổi cuộc giải phẫu kéo dài những 7 tiếng đồng hồ.
Thạc Sĩ Ngô Gia Hy đề nghị vợ tôi xin đi nước ngoài để chữa trị mới có hy vọng được cứu sống. Đề nghị nầy rất khó thực hiện vì gia đình không có tiền.
Ngoài ra, thủ tục xin xuất ngoại chữa bệnh cũng khó khăn. Trong cảnh tuyệt vọng, gia đình tôi chỉ còn có một con đường là mọi người hết lòng cầu nguyện, nài xin Chúa thương xót vợ tôi.
Lúc nầy, Hội Thánh Trần Cao Vân đã bị nhà nước tịnh thu và ngưng hoạt động.
Mục Sư Hồ Hiếu Hạ và các tôi tớ Chúa tại đây bị bắt giữ. Gia đình chúng tôi chuyển qua sinh hoạt tại một nhà thờ Tin Lành cách nhà chúng tôi chừng vài trăm thước.
Mục Sư Lê Quốc Chánh, chủ tọa Hội Thánh, đặt tay lên người vợ tôi để cầu nguuyện, xin Chúa chữa lành cho.
Vợ tôi kiêng ăn cầu nguyện. Cả gia đình cũng hết lòng cầu nguyện.
Vài ngày sau, vợ tôi đi ngoài và phát hiện một con giun đũa lớn kéo theo một chùm giun nhỏ cứ theo ra ngoài.
Vợ tôi lấy cả đám giun đem đến Bệnh Viện Bình Dân xét nghiệm. Thạc Sĩ Ngô Gia Hy xác nhận đây chính là giun chỉ ở thận của vợ tôi.
Ông rất ngạc nhiên và không hiểu tại sao giun lại theo đường tiêu hóa ra ngoài.
Khi Chúa cho phép bệnh tật xảy ra, Ngài cũng có cách chữa lành bệnh. Không việc gì Chúa không làm được vì Ngài là Đấng Toàn Năng, Toàn Tri. Ha-lê-lu-gia, cảm tạ Chúa.
Chúa Mở Đường Cho Tôi Đến Với Ngài
Đầu năm 1979, do tình hình chiến sự bộc phát ở biên giới Tây Bắc Việt Nam do Trung Quốc gây ra nên các trại cải tạo ở gần biên giới phía Bắc được di tản đưa về nhập với các trại phía Nam xa biên giới.
Tập thể tướng lãnh chúng tôi đang ở Trại Hà Tây (cách Hà Nội 25 cây số về phía Tây) cũng được phát tán qua các trại khác.
Tôi và các Tướng Lê Minh Đảo, Lý Tòng Bá, và Phạm Ngọc Sang được chuyển về Trại Nam Hà (phía Tây Phủ Lý 30 Km).
Đến giữa tháng Tư, 1979, thình lình tôi được lệnh tha cùng một lúc với bảy anh em khác ở trại.
Anh em bàn tán xôn xao, cho rằng tôi được lệnh tha là do nhu cầu chính trị, để tuyên truyền cho chính sách khoan hồng nhân đạo của chính phủ.
Rồi sau đó tôi được đưa về Trại Hà Tây. Nơi đây cũng có các anh em khác từ các trại cải tạo ở Thanh Hóa đưa về.
Tất cả chúng tôi là mười ba người được hưởng chế độ ăn uống bồi dưỡng và được đi thăm Hà Nội, có vẻ như sắp được cho về với gia đình.
Thủ tục nầy được áp dụng từ trước đến nay như một thông lệ. Sau hơn một tuần lễ sống trong tâm trạng hồ hởi, phấn khởi, chúng tôi được lệnh tập trung lên phòng họp của trại để nghe cấp trên nói chuyện.
Chúng tôi mừng hụt vì không phải được thả về mà để nghe động viên giải tinh thần buộc đi vào Thanh Hóa nghiên cứu thành lập một nông trường cho Bộ Nội Vụ (Cục Cải Tạo).
Trước vẻ mặt tiu ngỉu của chúng tôi, trại hứa hẹn chỉ đi vài tháng thôi “rồi cho các anh về”.
Về sau, tôi nghe các anh kể lại: Khi chúng tôi vào Thanh Hóa, và nói rằng tôi được cử làm giám đốc nông trường ở Thanh Hóa, (tôi còn là tù nhân thì làm sao làm giám đốc được!).
Tin nầy làm cho anh em phẫn nộ và có ác cảm với tôi. Đây là lần thứ hai tôi bị tai tiếng.
Lần trước tai tiếng đã từng xảy ra khi miền Nam bị mất. Ở đâu người ta cũng đồn tôi là thượng tá của Việt Cộng. Xin Chúa chứng giám và biện minh cho tôi.
Tôi vào Thanh Lâm (Thanh Hóa) gần hai năm. Đến giữa năm 1981, tôi được trở về Trại Hà Tây để bị giam chung với các tướng lãnh. Ai cũng chê tôi gầy và đen quá.
Trong hai năm 1980-81, Trại Thanh Lâm bị bão lụt tàn phá nhiều lần. Thiên tai gây tốn kém rất nhiều hoa màu. Cây cối bị thiệt hại nhiều lần, làm cho nông trường bị giải thể.
Các trại viên được chuyển về nam ở Trại Hàm Tân. Thời gian ở Thanh Lâm, gia đình tôi chỉ gởi quà tiếp tế chứ không ra thăm nuôi vì đường đi khó khăn trắc trở.
Về đến Hà Tây, có người nhà tôi ra thăm (sui gia và con gái). Ngoài quà cáp, tôi còn nhận được một quyển Kinh Thánh toàn bộ.
Tôi phải cất dấu mới đem được vào trại. Ở trang đầu quyển Kinh Thánh, Mục Sư Hồ Hiếu Hạ có ghi tặng tôi câu Kinh Thánh ở Thi Thiên 119:105 “Lời Chúa là ngọn đèn cho chân bác… là ánh sách cho đường lối bác …”
Lúc bấy giờ, Chúa đã làm cho tôi hai việc:
(1) Chúa trang bị cho tôi hành trang tâm linh để cho tôi đọc Kinh Thánh hằng ngày, dọn mình đến với Chúa.
(2) Chúa an bài sắp xếp cho tôi ở chung với một số con cái Chúa.
Thật lạ lùng khi tôi nghĩ ra điều nầy. Tôi được giam ở buồng bốn, có cửa thông qua buồng ba, nơi đây có ba Cơ Đốc Nhân là các Tướng Lê Trung Trực, Đoàn Văn Quảng, và Nguyễn Chấn Á.
Chịu Báp Têm
Cuối Tháng Ba, 1983, toàn Trại Hà Tây được chuyển về Trại Nam Hà.
Các tướng lãnh được tập trung ở một dãy buồng lớn. Tôi rất vui mừng là ở trại nầy có giam mục sư tuyên úy Tin Lành và một mục sư dân sự (Mục Sư Điểu Huynh).
Chúa Nhật 20, tháng Ba, 1983 là ngày đáng ghi nhớ trong đời tôi.
Sáng hôm ấy, sau khi tập họp điểm danh trước buồng, đáng lẽ người cán bộ phụ trách khóa cửa vòng ngoài của buồng như thường lệ, anh ta lại quên khóa cửa.
Chế độ giam giữ cấp tướng là biệt giam. Chúng tôi không được ra ngoài liên lạc với buồng khác.
Sau khi thấy việc quên không khóa cửa, các anh em Cơ Đốc Nhân chúng tôi bàn với nhau nên lén lút ra ngoài tìm chỗ nhóm họp của các mục sư.
Sau khi đồng ý, chúng tôi hé cửa thoát ra ngoài hỏi thăm chỗ nhóm của các mục sư rồi đến ngay nơi ấy.
Chúng tôi vào buồng 11, leo lên trên (chỗ ngủ phía dưới là bệ xi măng, còn phía trên là sạp ván).
Đang nhóm họp tại đây, có các Mục Sư Dương Kỳ, Nguyễn Văn Nghi, Võ Xuân, và một số tín hữu ở buồng khác đến.
Chúng tôi tham gia thờ phượng Chúa và nghe Mục Sư Dương Kỳ giảng.
Xong bài giảng, tôi xin Mục Sư Dương Kỳ làm phép Báp Tem cho tôi vì nếu bỏ lỡ cơ hội nầy, khó có thể có dịp khác.
Được Chúa cảm động, Mục Sư Dương Kỳ chấp thuận ngay. Thế là tôi được làm phép Báp Tem bằng nước trong bi đông tưới lên đầu.
Tôi cảm động đến rơi lệ vì tình thương của Chúa đã cứu chuộc tôi. Chúa đã rửa sạch tội lỗi cho tôi.
Kể từ hôm ấy, tôi được địa vị làm con cái Ngài và được gọi Ngài là Cha Thiên Thượng.
Rõ ràng, Ngài đã dọn đường cho tôi đến với Chúa theo cách Ngài muốn.
Vì tôi là cựu tổng trưởng Bộ Quốc Phòng nên tôi nghĩ Chúa muốn chính Mục Sư Dương Kỳ, đại tá Tuyên Úy Trưởng, ngành Tuyên Úy Quân Đội, làm lễ Báp Tem cho tôi.
Nghi thức nầy được thực hiện trong chốn lao tù, nơi tôi bị giam giữ.
Sau Khi Tin Chúa
Những Thay Đổi Bước Đầu
Sau khi tin Chúa, tôi cảm thấy vui mừng trong nội tâm. Vui mừng vì tất cả tội lỗi của tôi trong quá khứ đã được Chúa tha thứ, tẩy sạch. Đó là một gánh nặng mà tôi phải mang cho đến chết nếu không được Chúa cứu.
Lời Chúa trong Kinh Thánh còn hứa chắc chắn rằng Ngài dành cho tôi một chỗ ở trên thiên đàng khi linh hồn tôi rời bỏ thế gian nầy.
Trước đây, khi còn thờ hình tượng, không có đấng nào dám hứa với tôi như thế.
Tôi quyết tâm ăn năn tội lỗi, sống một cuộc sống mới thanh sạch và gương mẫu.
Tôi tuyệt nhiên không hút thuốc lá, uống rượu, hoặc cờ bạc là những điều dễ vấp phạm trong hoàn cảnh buồn khổ ở trại giam.
Được lời Chúa dạy dỗ và nhắc nhỡ hằng ngày, tôi sống vui vẻ và hạnh phúc hơn. Tôi được tình thương yêu lớn lao của Chúa bao bọc.
Tôi nhìn bạn bè xung quanh tôi với sự yêu thương chân thật. Tôi luôn luôn tìm cách giúp đỡ bạn bè trong các công việc lặt vặt như vá quần áo, sửa chữa đồ dùng (tôi được anh em khen là khéo tay).
Tôi tích cực chia xẻ công việc khó khăn và nặng nhọc ở buồng như vét giếng, sửa nhà vân vân.
Đối với bạn bè nóng tính, tôi luôn luôn nhường nhịn và sẵn sàng tha thứ mỗi khi họ xúc phạm.
Tôi sẵn sàng chia xẻ những gì tôi có cho bạn bè thiếu thốn từ thức ăn, thức uống cho đến các nhu cầu khác.
Chúa Sống Trong Tôi
Những sự thay đổi trong người tôi không phải do tôi giỏi, đức độ, hoặc siêng năng của tôi, bèn là Chúa sống trong tôi. Chúa đã diệt cái bản ngã thấp hèn của tôi rồi.
Tôi xin mượn lời của Vua Đa-vít chép trong Thi Thiên 51:9-10 để diễn tả tâm tình của tôi:
“Xin Chúa ngoảnh mặt khỏi các tội lỗi tôi và xóa hết thảy các sự gian ác tôi, Đức Chúa Trời ôi!
Xin hãy dựng nên trong tôi một lòng trong sạch và làm mới lại trong tôi một thần linh ngay thẳng”.
Tôi nghĩ lại quá khứ. Tôi không còn tin vào tướng số, vận may.
Lớn lên trong đức tin và sâu nhiệm lời Chúa, tôi thấy rõ ràng tình thương của Chúa đến với con người bằng cửa hoạn nạn.
Thật vậy, nếu không có hoạn nạn, chắc tôi chưa tìm gặp Chúa và được Chúa cứu.
So sánh cái “được” và cái “mất” từ năm 1975 đến ngày tôi tin Chúa, tôi mất tất cả tài sản, địa vị, danh vọng, hạnh phúc, tự do, vân vân, nhưng đổi lại, tôi có Chúa, có Đấng Quyền Năng, Đấng Hằng Hữu che chỡ, dẫn dắt, và ban cho.
Chẳng những Ngài ban cho trong đời nầy mà còn ban cho cả đời sau nữa. Cái “được” của tôi thật vô cùng lớn lao. Con xin cảm tạ ơn Chúa!
Ơn Phước Chúa Đầy Dẫy
Ơn Nhóm Lại Thờ Phượng
Mục Sư Dương Kỳ cắt cử Mục Sư Võ Ngọc Thiên Lộc phụ trách chăn giữ nhóm tín hữu buồng 3 của chúng tôi.
Tôi rất quý mến Mục Sư Lộc, người còn trẻ, chưa lập gia đình, tánh tình cởi mở, rộng rãi, và hào phóng.
Mục Sư Lộc rất được ơn trước mặt Chúa.
Hằng tuần, ông đều cố gắng trèo rào để vào buồng nhóm họp, thờ phượng, và rao giảng Lời Chúa cho chúng tôi.
Một điều lạ lùng ngoài sức tưởng tượng của tôi là Chúa đã gìn giữ, che chở cho chúng tôi được bình an trong suốt 229 tuần lễ, kể từ ngày tôi tiếp nhận Chúa đến ngày tôi được về với gia đình (2/9/1987).
Bình thường, mọi sự xuất nhập ở buồng 3 chỉ trong khoảnh khắc là được hệ thống báo cáo viên đặt ở các buồng chung quanh chúng tôi trình lên cán bộ ngay.
Điển hình là đã có bốn anh em tướng lãnh vừa ra khỏi buồng ba để liên lạc với bạn bè, họ bị cán bộ trực trại xuống tập họp điểm danh làm kiểm điểm ngay. Đó là các Tướng Trần Bá Di, Hồ Trung Hậu, Lam Sơn, và Trần Văn Cẩm.
Thế nhưng, trong suốt 229 tuần lễ, Mục Sư Lộc ra vào buồng sinh hoạt tôn giáo với anh em Cơ Đốc Nhân chúng tôi thì được Chúa che chở bình an vô sự.
Chúa Tiếp Trợ Lương Thực
Giữa năm 1984, hai vị cựu tuyên úy là Mục Sư Nguyễn Văn Nghi và Mục Sư Võ Xuân được Chúa cảm động lén trèo rào vào thăm chúng tôi.
Bốn anh em chúng tôi, các tướng lãnh đã tin Chúa rất vui mừng vì chúng tôi rất khao khát muốn được nghe lời Chúa qua các vị mục sư.
Chúng tôi cố giữ mời hai mục sư ở lại dùng cơm trưa với chúng tôi. Khi được hai vị đồng ý, Anh Trực bàn với tôi để anh và Anh Quảng cùng Cụ Á tiếp mục sư, còn tôi lo nấu cơm.
Tôi hơi bối rối vì thiếu chuẩn bị. Món mặn thì có cá khô và lạp xưởng tạm được, nhưng thiếu món canh vì thiếu rau tươi.
Tôi cuối đầu cầu nguyện xin Chúa tiếp trợ cho chúng tôi. Cầu nguyện xong, tôi đi xuống bếp. Tôi thấy Tướng Lý Tòng Bá đang ôm trên tay một bó bạc hà vừa mới nhổ ở luống rau của anh.
Tôi mừng quá. Tôi gọi Anh Bá lại và ngỏ ý xin. Anh Bá sẵn sàng cho tôi hết bó rau. Anh nói tự nhiên sáng nay anh có ý nhổ bạc hà để dọn đất trống trồng rau khác, và anh “không có nhu cầu” dùng rau bạc hà.
Trong bửa cơm trưa, tôi nói cho hai vị mục sư biết món canh chua bạc hà là do Chúa tiếp trợ. Chúng tôi cúi đầu cảm tạ Chúa!
Được Che Chở Nhờ Đức Tin
Giữa năm 1985, nhà tôi ra Trại Nam Hà thăm nuôi. Tôi được tin nầy từ chiều hôm trước và chuẩn bị sáng hôm sau ra gặp vợ.
Tối hôm ấy, một số anh em ngỏ ý xin tôi cho họ gởi thư về nhà. Đây là loại thư mang tay viết ngắn gọn để xin thuốc men, lương thực.
Việc làm nầy đầy rủi ro bất trắc. Nếu ra cổng trại bị khám xét có thư trong người, tôi sẽ bị đuổi trở vô, không cho ra gặp vợ tôi.
Thật ra, nếu tôi từ chối, các anh em cũng thông cảm thôi. Tôi cậy ơn Chúa che chở, bảo anh em viết thật ngắn gọn. Sáng mai, tôi sẽ tùy cơ ứng biến.
Tôi cầu nguyện xin Chúa giúp đỡ và che chở cho tôi mang thư ra được bình an. Tôi cảm thấy lòng nhẹ nhàng, bình an, và tin quyết nơi Chúa.
Sáng hôm sau, tôi nhận được mười hai lá thư xếp nhỏ gọn để dễ mang ra trại. Thay vì cất dấu trong người, tôi nghĩ ra một cách là cầm gọn trong tay trái. Nếu cán bộ bắt giữ, tôi có cớ nói mang ra công khai để xin phép cán bộ chứ không có ý gian. Với ý nghĩ đó, tôi mạnh dạn bước ra cổng trại theo các anh em đi thăm nuôi.
Hôm đó trời mưa lấm tấm. Tôi mang theo áo mưa khoác ở tay trái. Khi đến trước mặt cán bộ trực trại, anh ta hỏi: “Anh có mang theo thư từ gì ra ngoài không?” Tôi không dám nói dối vì nói dối là vấp phạm.
Tôi bình tĩnh trả lời: “Xin cán bộ cứ khám xét người tôi”. Vừa nói, tôi vừa giơ hai tay lên cao, đưa người cho anh ta khám. Anh ta nhìn vào mặt tôi để dò xét, rồi sờ mó qua người tôi từ trên xuống dưới, xong bảo tôi đi.
Qua khỏi chỗ đó, tôi hết sức vui mừng cảm tạ Chúa. Lòng tôi nhẹ nhỏm, lâng lâng, hạnh phúc vì sắp gặp lại vợ, lại sung sướng làm xong nhiệm vụ đối với anh em trong buồng giam.
Sự Qua Đời Của Một Con Cái Chúa
Giữa mùa Đông năm 1985, vào tháng Ba, trời trở rét đậm. Cả ngày trời âm u ảm đạm. Cuộc sống nơi buồng ba (giam cấp tướng) trong những ngày nầy bớt sinh động so với những ngày đầy nắng ấm.
Ai cũng thích ngồi gần bếp lửa để sưởi ấm. Bốn anh em Cơ Đốc Nhân chúng tôi (Đoàn Văn Quảng, Nguyễn Chấn Á, Lê Trung Trực, và Nguyễn Hữu Có) đang quan tâm đến hai vấn đề: Chị Quảng đang trên đường ra thăm anh và việc tổ chức buổi nhóm thờ phượng cuối tuần.
Khác với tuần lễ trước, tuần nầy Mục Sư Võ Ngọc Thiên Lộc cho biết ông gặp trở ngại không vào được buồng ba vì cán bộ của trại dường như theo dõi ông.
Tuy nhiên, sáng Thứ Bảy khoảng 11 giờ, ông đến gần tường rào chỗ gần giếng nước. Ông cho hay rằng ông sẽ vào buồng chúng tôi sau 12 giờ trưa và sẽ nhóm trong phòng ăn của buồng, khác với lần khác nhóm tại bếp nấu ăn của tôi hoặc của Anh Trực.
Ông thận trọng thay đổi chỗ nhóm để được an toàn hơn.
Bắt đầu buổi nhóm, Mục Sư Lộc cho biết tuần nầy ông đã soạn xong bài giảng, nhưng Chúa ngăn trở không cho vào buồng ba.
Sau khi cầu nguyện với Chúa nhiều lần, Đức Thánh Linh cảm động ông giảng đề tài khác: Về cái chết đối với Cơ Đốc Nhân.
Mặc dù thời gian đã qua lâu rồi, tôi vẫn còn nhớ nội dung bài giảng. Đây là những ý chính: Đức Chúa Trời là Đấng tạo dựng nên con người (Ma-la-chi 2:10a). Ngài ban cho con người sự sống và cuộc sống (Phục Truyền Luật Lệ Ký 30:15).
Ngài là Đấng Quyền Năng (Thi Thiên 62:11). Ngài có quyền ban cho và có quyền cất đi sự sống của con người bất cứ lúc nào (Gióp 1:21).
Con người trên thế gian không ai tránh khỏi sự chết. Cái chết không phân biệt tuổi tác, không phân biệt sang hèn. Con người ai cũng sợ chết, nhưng không ai tránh khỏi nó. Hoặc sớm hoặc muộn, con người đều phải chết (Truyền Đạo 9:3-5).
Người ngoại đạo quan niệm chết là hết, nhưng đối với Cơ Đốc Nhân, chúng ta có sự trông cậy về đời sau. Chết là lìa bỏ thế gian tạp bợ nầy để bước vào cuộc sống đời đời.
Thân xác chúng ta được Chúa dựng nên bằng bụi đất, và chúng ta sẽ trở về cát bụi trong lòng đất.
Linh hồn chúng ta được Chúa cứu chuộc sẽ về với Ngài nơi thiên quốc (Truyền Đạo 12:7).
Chúng ta không sợ cái chết, nhưng chúng ta luôn luôn có sự bình an vui mừng.
Mục Sư Lộc kết thúc bài giảng và mời Anh Quảng cầu nguyện. Anh cầu nguyện ngắn như sau:
“Chúa ơi, chúng con hết lòng cảm tạ Chúa vì Ngài cho chúng con nhóm lại thờ phượng Ngài và nghe lời Ngài dạy dỗ, nhắc nhỡ, và an ủi chúng con. Con luôn luôn vững vàng và đặt niềm tin nơi Chúa. Con sẵn sàng về với Chúa bất cứ khi nào Chúa gọi con.”
Ngày thứ Hai đầu tuần lễ, sinh hoạt ở buồng ba như thường lệ. Trong khuôn viên giữa bốn bức tường rào quen thuộc vẫn là: Tập thể thao, nấu ăn, tắm giặt, và đọc sách.
Buổi chiều sau giờ nghỉ trưa, tôi đang ngồi chơi ngoài sân. Anh Quảng qua chỗ tôi ngồi.
Anh đùa giởn với tôi và phấn khởi nói với tôi Chị Quảng sắp ra thăm anh rồi. Sau đó anh về phòng. Chỉ vài phút sau, anh em trong phòng nhốn nháo la to lên: “Anh Quảng bị ngất xỉu. Gọi cấp cứu!
Tôi chạy nhanh vào phòng, đến chỗ Anh Quảng nằm. Tôi thấy anh nhắm mắt. Tim không còn đập. Hơi thở cũng không còn nữa.
Chúng tôi vừa xoa dầu, xoa bóp chân tay anh, vừa làm hô hấp nhân tạo. Chúng tôi vừa làm, vừa theo dõi mong có được một dấu hiệu hồi sinh.
Dần dần, chúng tôi tuyệt vọng vì anh vẫn nằm bất động. Kế đó, buồng ba tràn ngập đầy người: Bác sĩ, y tá, cán bộ của trại, và bạn bè ở cách buồng khác, nhưng tất cả đều thất bại.
Anh Quảng đã vĩnh viễn ra đi! Chiều thứ Ba, tức ngày hôm sau, lúc 4 giờ chiều, Anh Quảng được nhập quan trước sự chứng kiến của vài người, trong số đó có Mục Sư Tín, Mục Sư Lộc, Anh Lê Trung Trực, và tôi.
Sáu tấm ván gỗ thường được đóng sơ sài là linh cữu của Anh Quảng được đưa ra ngoài trại bằng cửa hậu để tránh sự tò mò của các tù nhân.
Chúng tôi chỉ được phép đưa Anh Quảng ra khỏi cổng trại. Sau đó, một toán tù thường phạm khiêng linh cữu đi theo đường mòn vòng ra phía sau núi và được chôn một cách lặng lẽ trong buổi hoàng hôn u buồn.
Trời đã sẫm tối. Sương mù bắt đầu rơi xuống. Chúng tôi lủi thủi trở về buồng giam. Lòng nặng trĩu.
Hai hôm sau, tức ngày thứ Năm, Chị Quảng và người con út đến trại.
Anh Vũ Văn Giai và tôi được phép đến nhà thăm nuôi gặp Chị Quảng. Chúng tôi thuật lại sự ra đi của Anh Quảng, yên ủi chị trong nước mắt, và trao cho chị di sản hiếm hoi của Anh Quảng trước khi chị ra về.
Tôi hằng nhớ mãi kỹ niệm đau buồn trên đây. Những việc lạ lùng mà Đức Chúa Trời đã làm khiến cho mắt tôi thấy được sự hiện diện của Ngài trong mỗi giây phút cuộc đời tôi.
Thật Ngài là Đấng Toàn Tri. Việc gì chưa xảy ra, Ngài đã biết trước.
Với tình thương yêu lớn lao, Ngài đã tiên liệu và chuẩn bị cho sự ra đi của Anh Quảng được nhẹ nhàng và bình an.
Qua bài giảng của Mục Sư Lộc, lời của Ngài đã nhắc nhỡ và yên ủi Anh Quảng trước khi về với Ngài.
Ngài đã cảm động Mục Sư Lộc mời Anh Quảng cầu nguyện. Rõ ràng, đó là lời kêu gọi Anh Quảng về với Ngài, và Anh Quảng đã tuyệt đối vâng phục, sẵn sàng ra đi không do dự, không sợ hãi.
Ngài cũng giục lòng đưa đường Chị Quảng và người con trai út ra đến tận trại đúng lúc để viếng phần mộ Anh Quảng.
Đức Chúa Trời là Đấng Quyền Năng. Không việc gì mà Ngài không làm được. Ngài có quyền trên sự sống và sự chết của con người.
Qua việc Anh Quảng mà tôi đã chứng kiến, tôi càng vững niềm tin nơi Chúa, hết lòng tôn thờ, và vâng phục theo Ngài. A-men.
Thưa các bạn đọc thân mến,
Sau khi đọc xong bài làm chứng nầy, nếu lòng bạn thấy cảm động muốn tin nhận Đức Chúa Jesus Christ làm cức Chúa của mình, tôi khẩn thiết nài xin bạn hãy quyết định ngay để tội lỗi của bạn được tha, linh hồn của bạn được cứu rỗi, và đời sống của bạn được Chúa biến đổi.
Xin mời bạn đến bất cứ Hội Thánh Tin Lành Việt Nam nào gần nơi bạn cư trú để được hướng dẫn tiếp nhận Chúa.