Ngày 17-4-1945, Trần Trọng Kim trình lên vua Bảo Đại danh sách chính phủ, gồm đa số là những chuyên gia và trí thức. Vua Bảo Đại chuẩn y ngay.
- Sau khi quân đội Nhật Bản ở Đông Dương đảo chính Pháp ngày 9-3-1945, đại sứ Nhật tại Huế là Massayuki Yokoyama đến yết kiến vua Bảo Đại (trị vì 1925-1945) tại điện Thái Hòa trong hoàng thành Huế sáng ngày 11-3, giải thích những hành động mới nhứt của Nhật Bản tại Việt Nam và tuyên bố muốn đem “Châu Á trả về cho người châu Á”. Yokoyama còn nói rằng ông ta có “nhiệm vụ dâng nền độc lập” lên vua Bảo Đại, đồng thời kêu gọi Việt Nam cùng các nước Đông Dương gia nhập khối Đại Đông Á do Nhật Bản đứng đầu. (Bảo Đại, Con rồng Việt Nam, California: Xuân Thu, 1990, tr. 159.) Khối nầy do chính phủ Nhật Bản công bố thành lập ngày 1-8-1940.
Chiều 11-3-1945, vua Bảo Đại triệu tập cơ mật viện, các thượng thư và các hoàng thân để thảo luận tình hình mới. Cuộc họp đưa đến kết quả là nhà vua cùng các thượng thư Phạm Quỳnh (bộ Lại), Hồ Đắc Khải (bộ Hộ), Ưng Hy (bộ Lễ), Bùi Bằng Đoàn (bộ Hình), Trần Thanh Đạt (bộ Học) và Trương Như Đính (bộ Công), đồng ký bản TUYÊN NGÔN ĐỘC LẬP do Phạm Quỳnh soạn.
“Chiếu tình hình thế giới nói chung và tình hình Á Châu nói riêng, chính phủ Việt Nam long trọng công khai tuyên bố, kể từ ngày hôm nay hiệp ước bảo hộ ký với Pháp [năm 1884] được bãi bỏ và đất nước thu hồi chủ quyền độc lập quốc gia.
Nước Việt Nam cố gắng tự lực, tự cường để xứng đáng là một quốc gia độc lập và sẽ theo đường hướng của bản tuyên ngôn chung của khối Đại Đông Á, hầu giúp đỡ nhau tài nguyên cho nền thịnh vượng chung.
Vì vậy, chính phủ nước Việt Nam đã đặt tin tưởng vào sự thành tín của nước Nhật, và đã có quyết định cộng tác với nước nầy, hầu đạt mục đích nói trên.
Khâm thử,
Huế, ngày 27 tháng giêng năm thứ 20 triều Bảo Đại. (Bảo Đại, sđd. tr. 162.)
Như thế, sau hơn 60 năm bị Pháp bảo hộ từ hòa ước ngày 6-6-1884, nay nước Việt Nam chính thức độc lập do tình hình thế giới biến chuyển và do sự can thiệp của Nhật Bản. Lúc đó tại Âu Châu, Pháp được giải phóng khỏi tay Đức Quốc Xã. Chính phủ Pétain thân Đức sụp đổ. Nhật Bản lo ngại nhà cầm quyền Đông Dương sẽ theo lệnh của chính phủ mới ở Paris do De Gaulle giữ chức thủ tướng lâm thời, bất ngờ tấn công quân Nhật tại Đông Dương, chận đường Nhật Bản lui quân về nước. Vì vậy, quân Nhật quyết định đảo chính Pháp, nắm quyền kiểm soát Đông Dương, và tuyên bố trao trả nền độc lập cho Việt Nam.
Nền độc lập mới của Việt Nam khá bấp bênh vì Nhật Bản sắp thua trận, và vì Pháp không từ bỏ tham vọng đế quốc, sẽ kiếm cách trở lại Đông Dương. Dầu vậy, ở vị trí của triều đình Huế và vua Bảo Đại, đang lúc bị Pháp bảo hộ và kềm kẹp, mà được Nhật Bản giúp thoát ra khỏi tay Pháp, thì đây là cơ hội tốt nhất để được thay đổi, hy vọng có thể độc lập và tái xây dựng đất nước.
Sau khi công bố Bản Tuyên ngôn Độc lập ngày 11-3-1945, vua Bảo Đại triệu tập nhân sĩ khắp nước đến gặp, để thăm dò việc thành lập chính phủ mới. Người Nhật đưa Trần Trọng Kim từ Singapore về Sài Gòn ngày 30-3-1945, rồi đưa ông ra tới Huế ngày 5-4-1945. Trong cuộc triều yết ngày 7-4, Trần Trọng Kim đề nghị với vua Bảo Đại nên mời Ngô Đình Diệm lập chính phủ. Nhà vua liền nhờ người Nhật tìm kiếm ông Diệm để mời ông ra chấp chính. Người Nhật trả lời không kiếm được ông Diệm, mặc dầu ông Diệm đang sinh sống tại Sài Gòn. Vua Bảo Đại đợi ba tuần lễ mà không gặp được Ngô Đình Diệm, nên nhà vua ủy cho Trần Trọng Kim đứng ra lập nội các.
Trần Trọng Kim đưa ra hai tiêu chuẩn để chọn bộ trưởng vào chính phủ: “Một: phải có đủ học thức và tư tưởng về mặt chính trị, hai: phải có đức hạnh chắc chắn để dân chúng kính phục.” (Trần Trọng Kim, Một cơn gió bụi, Sài Gòn: Nxb. Vĩnh Sơn, tr. 51.) Tại điện Thái Hòa (Huế), ngày 17-4-1945, Trần Trọng Kim trình lên vua Bảo Đại danh sách chính phủ, gồm đa số là những chuyên gia và trí thức. Vua Bảo Đại chuẩn y ngay. Sau đây là nguyên văn đạo dụ số 5 của vua Bao Đại chuẩn y nội các Trần Trọng Kim:
Trong đạo dụ số 1 ngày mùng 4 tháng hai trước (dương-lịch 17-3-45), Trẫm đã chuẩn định một khoản về việc chiêu tập nhân tài để kiến thiết một nước Việt-Nam mới.
Sau đó, các Bộ-trưởng sung Cơ-mật Đại-thần xin từ chức. Trẫm đã chuẩn y và đã tuyên-triệu nhiều người về bệ-kiến. Mọi người đã tâu cho Trẫm biết rằng thần dân ai ai cũng có nhiệt tâm phụng-sự tổ-quốc và ao ước Nội-các mới mau thành lập.
Trẫm đã định giao quyền tổ-chức Nội-các mới cho nguyên Lại bộ thượng-thư Ngô-đình-Diệm và đã nhờ Quí-quan tối-cao Cố-vấn và sắc phong Ngự-tiền văn-phòng gửi thư và đánh điện tuyên triệu. Nhưng ngày hôm qua Quí-quan tối cao Cố-vấn phúc rằng Ngô khanh đau không về chầu được.
Nay vì việc nước không để chậm trễ được nữa, Trẫm chuẩn cho lập nội các như sau này:
Nội các Tổng-trưởng Trần-trọng-Kim
1. Nội-vu bộ bộ-trưởng: Trần-đình-Nam.
2. Ngoại-giao bộ bộ-trưởng: Trần-văn-Chương.
3. Tài-chính bộ bộ-trưởng: Vũ-văn-Hiền.
4. Kinh-tế bộ bộ-trưởng: Hồ-tá-Khanh.
5. Tiếp-tế bộ bộ-trưởng: Nguyễn-đình-Thí.
6. Giáo-dục Mỹ-thuật bộ bộ-trưởng: Hoàng-xuân-Hãn.
7. Tư-pháp bộ bộ-trưởng: Trịnh-đình-Thảo.
8. Công-chính giao-thông bộ bộ-trưởng: Lưu Văn Lang.
9. Y-tế cứu-tế bộ bộ-trưởng: Vũ-ngọc-Anh.
10. Thanh-niên bộ bộ-trưởng: Phan-Anh.
Trong sự lựa chọn người Trẫm rất chú ý đến việc Quốc-gia hợp nhất.
Trẫm mong rằng chư khanh sẽ đồng tâm hiệp lực mà giúp Trẫm thế nào cho sự kiến thiết nền độc-lập Tổ-quốc trong cõi Đại-đông-Á mau có hiệu quả, cho khỏi phụ công ơn nước Đại-nhật-bản đã giải phóng cho nước ta, cho đẹp lòng Trẫm tin cậy chư khanh và thỏa lòng hai mươi triệu quốc-dân trông đợi chính phủ mới.
Khâm thử
Phụng ngự ký “BẢO ĐẠI”
Giáng dụ tại lầu Kiến-trung ngày 9 tháng 3 năm Bảo Đại 20 (Dương-lịch ngày 17 tháng tư năm 1945). (Nguyễn Duy Phương, Lịch-sử và nội-các đầu tiên Việt-Nam, Hà-Nội: Việt-Đông xuất- bản cục, 1945, tr. 4.) (Sách dày 62 trang lớn, trích nguyên văn cả chính tả lúc đó.)
Theo đạo dụ trên đây, vua Bảo Đại nhờ người Nhật mời cựu Lại bộ thượng thư Ngô Đình Diệm về Huế lập chính phủ, nhưng người Nhật trả lời Ngô Đình Diệm bị bệnh không về được. Tuy nhiên, theo Trần Trọng Kim, có thể vì ông Diệm thuộc phe cánh Kỳ Ngoại Hầu Cường Để, mà cuối thế chiến thứ hai, Nhật không chọn Cường Để và chọn vua Bảo Đại, nên Nhật cũng không mời ông Diệm. (Trần Trọng Kim, Một cơn gió bụi, Sài Gòn: Nxb. Vĩnh Sơn, 1969, tt. 49-50.)
Lời giải thích trên đây có phần hữu lý vì lúc đó Cường Để đang sống ở Nhật. Ông thành lập Việt Nam Độc Lập Vận Động Đồng Minh Hội năm 1936, đổi thành Việt Nam Phục Quốc Đồng Minh Hội năm 1938 và ra mắt tại Thượng Hải năm 1939, giao cho Trần Quang Vinh và Trần Văn Ân phụ trách miền Nam, Ngô Đình Diệm và Phan Thúc Ngô ở miền Trung và Dương Bá Trạc, Nguyễn Xuân Chữ ở miền Bắc. (Trần Mỹ Vân, A Vietnamese Royal Exile in Japan, Prince Cường Để (1882-1951), New York: Routledge, 2005, tr. 142.) Có tài liệu cho rằng Cường Để là một chuẩn bị của Nhật để đưa về Việt Nam cầm quyền. Tuy nhiên lúc Nhật Bản đảo chính Pháp là lúc Nhật Bản đang gặp nhiều khó khăn về quân sự, chính trị và cả kinh tế nữa, quá nhiều vấn đề phải đối phó, nên Nhật Bản không muốn thay đổi triều đình Việt Nam để tránh làm cho tình hình trở nên phức tạp thêm.
Chính phủ Trần Trọng Kim là chính phủ đầu tiên của Việt Nam độc lập được tổ chức theo cơ cấu tây phương, gồm nhiều bộ. Tất cả những bộ trưởng trong chính phủ đều là những chuyên gia tân học, gồm một giáo sư, hai kỹ sư, bốn bác sĩ, bốn luật sư. Đặc biệt chính phủ nầy không có bộ Binh, hay bộ Quốc phòng, hoặc bộ An ninh. Trước đây, sau khi vua Bảo Đại từ Pháp về cầm quyền năm 1932, Pháp cải tổ triều đình Huế ngày 2-5-1933, bộ Binh bị bãi bỏ. Nay chính phủ Trần Trọng Kim dưới quyền vua Bảo Đại cũng không có bộ Binh. Trong hồi ký của mình, Trần Trọng Kim giải thích như sau:
“Việc binh bị trong nước là việc quan trọng đến vận mạng cả nước, mà lúc ấy quân lính và súng ống không có. Ở kinh đô Huế có tất cả hơn một trăm lính bảo an, tức lính khố xanh cũ, và sáu bảy chục khẩu súng cũ, đạn cũ, bắn mười phát thì năm sáu phát không nổ. Ở các tỉnh cũng vậy, mỗi tỉnh có độ 50 lính bảo an, các phủ huyện thì có độ chừng vài chục người. Việc phòng bị do quân Nhật Bản đảm nhiệm hết. Vì lẽ đó và các lẽ khác nữa mà lúc đầu chúng tôi không đặt bộ Quốc phòng. Một là trong khi quân Nhật đang đóng ở trong nước, nếu mình đặt bộ Quốc phòng thì chỉ có danh không có thực, và người Nhật có thể lợi dụng bắt người mình đi đánh giặc với họ. Hai là trước khi mình có đủ binh lính và binh khí, ta hãy nên gây cái tinh thần binh bị, thì rồi quân đội mình mới có khí thế.” (Trần Trọng Kim, sđd. tt. 57-58.)
Ngoài ra, có thêm hai dư luận khác giải thích sự kiện nầy: 1) Có thể chính phủ Trần Trọng Kim gồm toàn khoa bảng chuyên viên, ít hiểu biết về việc quân sự nên không thấy rõ tầm mức quan trọng của bộ Quốc phòng. 2) Hoặc có thể người Nhật muốn nắm toàn bộ vấn đề quốc phòng Việt Nam mà không giao cho chính phủ Trần Trọng Kim vì sợ bất trắc cho việc rút quân.
Dầu sao, việc quốc phòng chỉ dựa trên quân đội Nhật là điều sẽ rất tai hại về sau, vì khi quân Nhật rút lui hay đầu hàng Đồng minh, thì chính phủ Trần Trọng Kim không có lực lượng quân sự để tự bảo vệ mình, bảo vệ an ninh lãnh thổ, và sẽ dễ dàng bị sụp đổ. Cũng vì chính phủ Trần Trọng Kim không có bộ Quốc phòng, không có quân đội để giữ gìn an ninh, trật tự và bảo vệ chế độ, nên ở ngoài Bắc, Việt Minh cộng sản bành trướng nhanh chóng mà không có ai ngăn chận và sau đó Việt Minh cướp chính quyền tháng 8-1945 chỉ với một lực lượng khoảng 5,000 đảng viên trên toàn quốc, (Philippe Devillers, Histoire du Viêt-Nam de 1940 à 1952, Editions Du Seuil, Paris 1952, tr. 182.)
Trở lại triều đình Huế, trong cuộc họp nội các đầu tiên ngày 3-5-1945, vua Bảo Đại tuyên chiếu như sau:
Chư Khanh,
Nội-các này là Chính-phủ đầu tiên của nước Việt-Nam độc lập sau 80 năm thuộc quyền ngoại-quốc thống-trị.
Trong thời gian đó dưới chính thể eo hẹp của người ngoài, dẫu có người tài năng ra giúp nước cũng không thể thi thố được gì.
Nay nhờ được Hoàng quân Đại Nhật-Bản, nước nhà đã được giải phóng.
Những người ra gánh vác việc nước ngày nay là được một cái danh dự tối cao, mà cũng là đương một trách nhiệm rất to, và chịu một sự hy-sinh rất nặng.
Trẫm đã lựa chọn khắp nhân tài trong nước, kén lấy những người có học thức, có đức hạnh, có kinh nghiệm đủ đương việc nước trong buổi bây giờ. Trẫm chắc rằng Chư Khanh sẽ làm trọn chức vụ không phụ lòng Trẫm ủy-thác và lòng dân kỳ vọng.
Điều cần nhất là phải gây sự đồng tâm hiệp lực trong toàn thể quốc dân, phải đoàn kết chặt chẽ các giai tằng xã hội, và luôn luôn giữ một mối liên lạc mật thiết giữa Chính phủ và nhân dân.
Chính phủ ngày nay không phải phụng sự một cá nhân hay một đảng phái nào cả.
Quốc dân phải đồng tâm hiệp lực, lại phải nỗ lực cần cù nữa. Dân nô lệ nhất thiết ỷ lại ở người; dân độc lập nhất thiết trông cậy ở mình. Trông cậy ở mình thì phải gắng sức và hy sinh nhiều mới mong sinh tồn phát đạt được ở giữa cõi đời cạnh tranh kịch liệt ngày nay.
Dân một nước độc lập là dân biết ham tự do mà cũng biết trọng kỷ luật, biết giữ trật tự nữa. Dân biết trọng kỷ luật, giữ trật tự thì sự trị an được dễ dàng, và chính-phủ mới lo cải tạo quốc gia được.
Muốn cải-tạo quốc-gia, chính-phủ cần hành động cho quy-củ nghĩa là phải có hiến pháp.
Hiến pháp tương lai của Việt-Nam sẽ căn cứ vào sự hợp nhất quốc-gia, sự quân dân cộng tác, và những quyền tự do chính-trị tôn-giáo cùng nghiệp-đoàn của nhân-dân.
Một hội-nghị lập-hiến sẽ căn cứ và những nguyên tắc kể trên mà khởi thảo một bản hiến-pháp.
Nhưng trong lúc chiến-tranh và cớ-căn này, những vấn-đề về quốc-kế dân-sinh rất là phiền-phức và khẩn-cấp. Chính phủ phải cá đủ quyền mà giải quyết những vấn đề đó cho mau chóng.
Còn về phương diện dân, sẽ có những cơ quan, cố vấn đặt trong toàn quốc, hay trong các địa phương để bày tỏ ý kiến với chính-phủ và liên-lạc chính-phủ với nhân-dân.
Đồng thời, một ủy ban sẽ nghiên-cứu những sự cần cải cách gấp, như việc nghi-lễ, quốc-kỳ và quốc ca vân vân…
Trẫm biết nó dễ mà khó: trên con đường độc lập của nước nhà còn biết bao nhiêu là nỗi khó khăn, nhưng Trẫm tin rằng một dân tộc hơn hai mươi triệu người như dân Việt-Nam ta, đã có hai nghìn năm lịch sử vẻ vang oanh liệt chẳng kém gì người, sẽ đủ sức vượt qua mọi sự khó khăn, đủ sức gánh một phần trách nhiệm trong việc kiến-thiết nền thịnh vượng chung ở Đại-Đông-Á và đi tới địa vị một dân-tộc hùng-cường trong thế-giới được.
Thuận-Hóa ngày 27 tháng 3 năm Bảo-Đại 20
(Dương lịch ngày 3 tháng 5 năm 1945) (Nguyễn Duy Phương, sđd. tt. 5, 6.)
Chiếu chỉ trên đây cho thấy vua Bảo Đại chủ trương đoàn kết dân tộc, dân chủ hóa đất nước, triệu tập quốc hội lập hiến, xây dựng hiến pháp và kêu gọi dân chúng cùng nhau nỗ lực kiến thiết quốc gia vững mạnh. Sau chiếu chỉ của nhà vua, chính phủ Trần Trọng Kim đưa ra bản tuyên cáo sau đây với quốc dân:
Ngày 25 tháng giêng năm Ất-dậu tức là ngày mồng 9 tháng 3 năm 1945, quân đội Nhật-bản đã đánh đổ quyền của người Pháp trong toàn hạt Đông-dương. Sau đó, đức Kim-Thượng đã tuyên bố nước Việt-Nam độc-lập. Đồng thời, thủ tướng Koiso bá cáo rằng nước Nhật không tham vọng lĩnh thổ nước ta.
Thế là hơn 80 năm bị áp chế nước ta đã khôi phục nền tự chủ và địa vị của một nước văn hiến ở cõi Á-đông.
Chúng ta không thể quên ơn nước Đại Nhật-Bản đã giải phóng cho ta, không thể quên ơn đức Kim-Thượng đã quả quyết dắt dân ta lên đường độc-lập, không thể quên ơn bao nhiêu nghĩa sĩ xưa nay đã hy sinh để nêu cao cái tinh thần phấn đấu của giống nòi.
Muốn giữ vững nền độc-lập; quốc dân ta còn phải gắng sức làm việc, và chịu nhiều sự hy-sinh nữa. Vừa mới được giải phóng nước ta không thể nghĩ tới sự chiến tranh với ai nhưng ta phải thành thực hợp tác với nước Đại Nhật-Bản trong sự kiến thiết nền Đại-Đông-Á. Vì cuộc thịnh vượng chung của Đại-Đông-Á có thành, thì sự độc-lập của nước ta mới không phải là giấc mộng thoảng qua.
Hiện nay thế giới còn trong vòng chiến-tranh nên công việc kiến-thiết quốc gia còn nhiều nơi khó. Bọn dân của quân Mỹ không những tàn sát kẻ vô tội, mà còn cản trở sự giao thông khiến cho mấy mươi vạn nhân dân sinh trên khoảng đất phì nhiêu mà đành chết đói.
Tuy tình thế khó khăn, nhưng trên nhờ lòng tin cậy của Đức Kim-Thượng, dưới nhờ sức ủng hộ của quốc dân, ngoài tin vào lòng thành thực của nước Đại Nhật-Bản, chúng tôi hết sức theo đuổi mục đích là hợp nhất tất cả các phần tử quốc dân để củng cố nền độc-lập của quốc-gia và gây mạnh tinh thần yêu nước trong mọi giai-tằng xã-hội.
Chính phủ sẽ lập một kỷ niệm đài để ghi công các bậc anh-hùng đã hy-sinh vì nòi giống; sẽ tìm mọi cách để các chính khách còn phiêu được trở về tổ quốc; sẽ xóa bỏ những hình án bất công để những người ái-quốc còn bị giam cấm trong lao ngục có thể tùy tài sức mà tham dự vào cuộc kiến-thiết quốc-gia.
Ngoài việc tiếp-tế lương-thực cho nhân dân và việc chẩn cấp cho hàng triệu người đương khủng bố về nạn đói ở miền bắc, thuế khóa sẽ dần dần định lại cho công bằng, và cho Nam chí Bắc; thuế ngạch thành duy nhất.
Công cuộc kiến-thiết quốc-gia sẽ cần đến tài lực và nhiệt tâm của tất cả mọi người trong nước. Đoàn kết quốc dân để gây thành một mãnh lực, đặt những cơ quan để liên lạc mật thiết chính phủ với dân chúng, đó là những việc mà Nội-các sẽ chú ý đặc-biệt.
Nội các sẽ trù tính cách thống nhất pháp-luật trong toàn quốc và để tránh sự lạm quyền hành chính và tư pháp.
Nan tham nhũng là cái tệ dung túng từ trước cần phải trừ cho tiệt. Nước ta đã buộc vào một kỷ nguyên mới, kẻ nào không biết cải tà quy chính sẽ phải trừng trị rất nghiêm.
Vận nước mai sau là cốt ở thanh niên bây giờ; cho nên Chính-phủ rất chú trọng đào tạo những người mạnh mẽ, khí khái, có nghề nghiệp, có tổ chức, có huấn luyện để bảo vệ nền độc lập đương xây.
Về phương diện kinh tế, trong lúc chiến tranh chưa kết liễu và phải sống cách biệt với ngoài, nước ta chưa có thể thực hành ngay một chương trình to tát. Nhưng chính phủ sẽ dự bị một cuộc tổ chức mới, chú trọng nhất là nâng cao trình độ sinh hoạt dân chúng. Muốn thi hành chính sách ấy, tuy quốc gia phải đảm nhận một phần lớn trách nhiệm nhưng cũng cần sự hợp tác của tất cả các đoàn thể và cá nhân.
Lĩnh mệnh của Đức Kim-Thượng, đương trách nhiệm nặng nề đối với quốc dân, chúng tôi hiểu rõ rằng bước đầu phải đi, mà phải đi rất thận trọng. Chúng tôi xin tuyên-thệ với quốc dân đem hết tâm trí để theo đuổi mục đích duy nhất là xây đắp nền độc lập nước nhà không tư vị cá nhân hay đảng phái. Chúng tôi chắc rằng mọi người trong quốc dân cùng một lòng vì nước giữ thái độ bình tĩnh và tuân theo kỷ luật để làm hết phận sự. Mong nền móng xây đắp được vững vàng để cơ đồ nước Việt-nam ta muôn đời trường cửu. (Nguyễn Duy Phương, sđd. tt. 6, 7.)
Theo bản tuyên cáo nầy, chính phủ Trần Trọng Kim hứa hẹn sẽ thực hiện các chính sách sau: Về đối ngoại, chính phủ cảm ơn và liên kết, hợp tác với Nhật Bản vì theo ông “cuộc thịnh vượng chung của Đại-đông-Á có thành, thì sự độc-lập của nước ta mới không phải là giấc mộng thoảng qua.” Chỉ vài tháng sau, Nhật Bản sụp đổ, thì đúng là chính phủ Trần Trọng Kim chỉ là “giấc mộng thoảng qua”. Lúc đó, quân đội Đồng minh nhất là Không quân Mỹ oanh tạc nặng nề các trục lộ giao thông, đường xe lửa Bắc Nam, thuyền bè dọc duyên hải, gây trở ngại cho việc chuyên chở lương thực từ miền Nam tiếp tế cho đồng bào đang bị đói ở Bắc Việt, nên chính phủ đã lên án “bọn dân của quân Mỹ không những tàn sát kẻ vô tội, mà còn cản trở sự giao thông khiến cho mấy mươi vạn nhân dân sinh trên khoảng đất phì nhiêu mà đành chết đói.”
Về đối nội, chính phủ Trần Trọng Kim hứa hẹn đoàn kết toàn dân, giải quyết nạn đói ở ngoài Bắc, thống nhứt luật pháp, định lại thuế khóa, tiêu diệt tham nhũng, và long trọng tuyên thệ sẽ đem hết tâm trí, sức lực để phục vụ đất nước.
Chính phủ Trần Trọng Kim quả thực đã giữ đúng lời hứa, vì tuy chỉ tồn tại khoảng bốn tháng và sụp đổ sau khi Nhật Bản đầu hàng ngày 14-8-1945, nhưng chính phủ nầy đã thực hiện được nhiều công trình đáng kể: cứu đói ở Bắc Kỳ, hợp nhứt hai nền hành chính Pháp và hành chính Việt Nam dưới thời Pháp thuộc thành nền hành chính duy nhứt Việt Nam, hợp nhứt Bắc Kỳ và Nam Kỳ vào chính phủ trung ương Việt Nam, dùng chữ quốc ngữ làm chuyển ngữ chính thức trong hành chính và trong giáo dục, thi cử, mở trường huấn luyện thanh niên, phát triển phong trào thanh niên trên toàn quốc, thành lập ủy ban soạn thảo hiến pháp, ủy ban cải cách văn hóa, giáo dục, xã hội, nhưng rất tiếc các ủy ban chưa hoạt động được thì chính phủ sụp đổ. Điểm đặc biệt là chính phủ Trần Trọng Kim được Nhật hậu thuẫn, nhưng từ khi thành lập cho đến khi giải tán, chính phủ nầy hoạt động độc lập và không lệ thuộc người Nhật.
Tóm lại, ngoài cố gắng cứu đói ở Bắc Kỳ, chính phủ Trần Trọng Kim đã đặt nền móng căn bản cho nền hành chính tương lai Việt Nam, và quan trọng nhứt là chương trình giáo dục của Hoàng Xuân Hãn rất hữu ích cho sự phát triển nền văn hóa giáo dục Việt Nam ngày nay.
(San Jose, 25-6-2016)
Trần Gia Phụng